A. BẢO VỆ NỀN TẢNG TƯ TƯỞNG CỦA ĐẢNG
1. Khái quát nền tảng tư tưởng của Đảng
Nền tảng tư tưởng của Đảng là hệ thống lý luận, là cơ sở khoa học và thực tiễn về xây dựng Đảng, về nguyên tắc tổ chức, hoạt động của Đảng, về định hướng phát triển của Đảng, về mục tiêu đấu tranh cách mạng của Đảng. Một Đảng chính trị (chính Đảng) nhất thiết phải có một nền tảng tư tưởng riêng và không được tách rời nền tảng tư tưởng đó, trừ khi muốn biến nó thành một Đảng hay một tổ chức khác. V.I. Lênin chỉ rõ: “Không có lý luận cách mạng thì cũng không thể có phong trào cách mạng”, “chỉ Đảng nào có được một lý luận tiền phong hướng dẫn thì mới có khả năng làm tròn vai trò chiến sĩ tiền phong”. Một chính Đảng có thể trở thành một loại hình tổ chức khác nếu không có một nền tảng tư tưởng vững chắc. Nền tảng tư tưởng của Đảng là bộ phận quan trọng, là nhân tố căn bản, cốt lõi, tạo cơ sở, tiền đề quyết định mọi hoạt động xây dựng, sinh hoạt và lãnh đạo của một Đảng. Nếu nền tảng tư tưởng thay đổi, tất yếu sẽ dẫn tới sự thay đổi về mục tiêu, lý tưởng, nguyên tắc tổ chức, phương hướng hoạt động chính trị của Đảng.
Chủ tịch Hồ Chí Minh khẳng định: “Đảng muốn vững thì phải có chủ nghĩa làm cốt, trong Đảng ai cũng phải hiểu, ai cũng phải theo chủ nghĩa ấy. Đảng mà không có chủ nghĩa cũng như người không có trí khôn, tàu không có bàn chỉ nam. Bây giờ học thuyết nhiều, chủ nghĩa nhiều, nhưng chủ nghĩa chân chính nhất, chắc chắn nhất, cách mệnh nhất là chủ nghĩa Lênin”.
Đối với Đảng Cộng sản Việt Nam, nền tảng tư tưởng của Đảng ta là Chủ nghĩa Mác – Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh, nội dung nền tảng đó vừa mang tính cách mạng vừa có tính khoa học sâu sắc. Thực tế đã và đang khẳng định bản chất cách mạng và khoa học, giá trị và sức sống bền vững của chủ nghĩa Mác – Lênin. Đảng ta và Chủ tịch Hồ Chí Minh luôn đánh giá một cách khách quan, chính xác, đầy đủ và sâu sắc về vai trò của chủ nghĩa Mác – Lênin trong quá trình cách mạng Việt Nam. Chủ tịch Hồ Chí Minh đã từng khẳng định: “Chủ nghĩa chân chính nhất, chắc chắn nhất, cách mệnh nhất là chủ nghĩa Lênin”. Theo Hồ Chí Minh, chủ nghĩa Mác – Lênin không những là “cẩm nang” thần kỳ, là kim chỉ nam mà còn là “mặt trời soi sáng” con đường chúng ta đi đến thắng lợi cuối cùng, đi tới chủ nghĩa xã hội và chủ nghĩa cộng sản.
Tư tưởng Hồ Chí Minh là sự vận dụng và phát triển sáng tạo chủ nghĩa Mác – Lênin vào điều kiện cụ thể của Việt Nam. Những cống hiến đó, trước hết do Hồ Chí Minh đã nắm được bản chất cốt lõi, “linh hồn sống” trong tư tưởng của các nhà kinh điển Mác – Lênin. Theo Hồ Chí Minh, mục đích học chủ nghĩa Mác – Lênin là để phụng sự lợi ích chung, chứ không có gì cao xa, nếu không hết lòng, hết sức phụng sự nhân dân, tự kiêu, tự đại, tự tư, tự lợi là trái với chủ nghĩa Mác – Lênin. Hồ Chí Minh cũng chỉ rõ: “Nếu thuộc bao nhiêu sách mà sống không có tình, có nghĩa thì sao gọi là hiểu chủ nghĩa Mác – Lênin được”.
Bản chất của chủ nghĩa Mác – Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh là khoa học, cách mạng thống nhất biện chứng với nhau. Vì thế, không thể tách rời mối quan hệ vốn có giữa tư tưởng Hồ Chí Minh với chủ nghĩa Mác – Lênin; không thể lấy tư tưởng Hồ Chí Minh để thay thế cho chủ nghĩa Mác – Lênin và ngược lại. Cũng không thể đề cao hoặc tuyệt đối hóa tư tưởng Hồ Chí Minh, cũng như bằng cách này hay cách khác lại phủ nhận chủ nghĩa Mác – Lênin.
Ngay từ khi ra đời, Đảng ta xác định “lấy chủ nghĩa Mác – Lênin” làm nền tảng tư tưởng và kim chỉ nam hành động, phát huy truyền thống tốt đẹp của dân tộc, tiếp thu tinh hoa trí tuệ của nhân loại, nắm vững quy luật khách quan, xu thế thời đại và thực tiễn đất nước để đề ra cương lĩnh chính trị, đường lối cách mạng, phù hợp với nguyện vọng của nhân dân. Điều lệ Đảng năm 1935 khẳng định: “Đảng Cộng sản Đông Dương, đội tiền phong duy nhất của vô sản giai cấp, tranh đấu để thu phục đa số quần chúng vô sản, lãnh đạo nông dân lao động và tất thảy quần chúng lao động khác, chỉ huy họ làm cách mạng phản đế và điền địa (mưu cho Đông Dương được hoàn toàn độc lập, dân cày được ruộng đất, các dân tộc thiểu số được giải phóng), lập chính quyền Xô viết công nông binh, đặng dự bị điều kiện tranh đấu thực hiện vô sản chuyên chính, kiến thiết xã hội chủ nghĩa là thời kỳ đầu của cộng sản chủ nghĩa theo chương trình của Quốc tế Cộng sản”. Điều lệ của Đảng năm 1951 chỉ rõ: “Đảng Lao động Việt Nam lấy chủ nghĩa Mác – Ănghen – Lênin – Stalin và tư tưởng Mao Trạch Đông kết hợp với thực tiễn cách mạng Việt Nam làm nền tảng tư tưởng và kim chỉ nam cho mọi hành động của Đảng”. Đại hội Đảng lần thứ III (1960) của Đảng xóa bỏ cụm từ “Ănghen, Stalin và tư tưởng Mao Trạch Đông”, Nghị quyết đại hội xác định: “Đảng lao động Việt Nam lấy chủ nghĩa Mác – Lênin làm nền tảng tư tưởng và kim chỉ nam cho mọi hành động của Đảng”. Đại hội Đảng lần thứ VI (12/1986) của Đảng Cộng sản Việt Nam nhấn mạnh: “Muốn đổi mới tư duy, Đảng ta phải nắm vững bản chất cách mạng và khoa học của chủ nghĩa Mác – Lênin, kế thừa di sản quý báu về tư tưởng và lý luận cách mạng của Chủ tịch Hồ Chí Minh”. Đến Đại hội VII (6/1991), Đảng bổ sung điểm mới: “Nêu cao tư tưởng Hồ Chí Minh”; đồng thời, khẳng định: tư tưởng Hồ Chí Minh là kết quả của sự vận dụng sáng tạo chủ nghĩa Mác – Lênin trong điều kiện cụ thể của Việt Nam và tư tưởng Hồ Chí Minh đã trở thành tài sản tinh thần quý báu của Đảng và dân tộc ta. Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VII của Đảng, năm 1991, trong Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội, Đảng ta đã khẳng định: “Đảng lấy chủ nghĩa Mác – Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh làm nền tảng tư tưởng, kim chỉ nam cho hành động”. Đây là bước phát triển lớn trong tư duy, nhận thức và hoạt động thực tiễn về nền tảng tư tưởng của Đảng; thể hiện rõ quan điểm nhất quán về mặt tư tưởng, cùng với chủ nghĩa Mác – Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh là một bộ phận cơ bản cấu thành hệ tư tưởng, thế giới quan, phương pháp luận của Đảng Cộng sản Việt Nam. Sự khẳng định nền tảng tư tưởng của Đảng trong Cương lĩnh năm 1991, không chỉ bảo đảm sự thống nhất nhận thức trong toàn Đảng mà còn thể hiện rõ ý chí kiên quyết đấu tranh đối với những những luận điệu sai trái, thù địch đi ngược lại tư tưởng cách mạng và khoa học của chủ nghĩa Mác – Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh. Đến Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XII, năm 2016, Đảng ta xác định: “Kiên định chủ nghĩa Mác – Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, vận dụng sáng tạo và phát triển phù hợp với thực tiễn Việt Nam”. Tại Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII, Đảng ta tiếp tục khẳng định: “Kiên định và vận dụng, phát triển sáng tạo chủ nghĩa Mác – Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh”.
Trong bối cảnh hiện nay, trước những nguy cơ và thách thức lớn đối với sự nghiệp đổi mới ở Việt Nam, Nghị quyết Trung ương 4 khóa XII của Đảng đã nhấn mạnh: Đảng ta luôn giữ vững bản lĩnh chính trị, bản chất cách mạng và khoa học; kiên định chủ nghĩa Mác – Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, mục tiêu độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội; thường xuyên tự đổi mới, tự chỉnh đốn và ngày càng lớn mạnh. Để xây dựng và phát triển đất nước không còn con đường nào khác ngoài con đường cách mạng xã hội chủ nghĩa, trên thực tế con đường này đã khẳng định được sự thành công rõ nét, thể hiện qua các thắng lợi của cuộc cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân và thành tựu của công cuộc đổi mới.
a. Khái niệm chung
Đảng Cộng sản Việt Nam: Là đội tiên phong của giai cấp công nhân và nông dân, đại biểu trung thành cho lợi ích của giai cấp công nhân và nông dân lao động. Là tổ chức chính trị duy nhất được hiến pháp Việt Nam 2013 công nhận. Đảng cộng sản Việt Nam lấy nền tảng cốt lõi là chủ nghĩa Mác – Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh để hoạt động và phát triển.
Nền tảng tư tưởng của Đảng được khẳng định tại “cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội năm 2011” và được khẳng định là chủ nghĩa Mác – Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh. Chủ nghĩa Mác- Lênin là học thuyết lý luận sâu rộng, toàn diện trên mọi lĩnh vực, mà căn bản, quan trọng, cốt lõi, gồm: Triết học, Kinh tế chính trị học và chủ nghĩa xã hội khoa học.
b. Khái niệm về bảo vệ nền tảng tư tưởng
Bảo vệ nền tảng tư tưởng của Đảng là bảo vệ chủ nghĩa Mác-Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh; là học tập, nghiên cứu, phát huy, phát trển, tuyên truyền, phổ biến sâu rộng những giá trị của chủ nghĩa Mác-Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh giữ vai trò chủ đạo trong đời sống xã hội.
Bảo vệ nền tảng tư tưởng của Đảng là bảo vệ Đảng, bảo vệ Cương lĩnh chính trị, đường lối lãnh đạo của Đảng, bảo vệ Nhân dân, Nhà nước pháp quyền XHCN Việt Nam, bảo vệ công cuộc đổi mới, công nghiệp hóa hiện đại hóa đất nước và hội nhập Quốc tế, bảo vệ lợi ích quốc gia, dân tộc, giữ gìn môi trường hòa bình, ổn định phát triển đất nước.
2. Thực trạng công tác bảo vệ nền tảng tư tưởng của Đảng
Trong những năm qua, công tác bảo vệ nền tảng tư tưởng của Đảng ở nước ta đã đạt được nhiều thành tựu quan trọng, góp phần ngăn chặn và đẩy lùi các âm mưu phá hoại của các thế lực thù địch, giữ vững an ninh chính trị, trật tự an toàn xã hội, củng cố và tăng cường niềm của nhân dân đối với Đảng và Nhà nước. Tuy nhiên, vẫn còn nhiều hạn chế như: chưa đa dạng hóa các hình thức thông tin, chất lượng thông tin chưa hoàn toàn đáp ứng nhu cầu của người dân; chưa tích cực, chủ động đấu tranh phản bác các thông tin, quan điểm sai trái, thù địch; chưa phát huy vai trò giám sát, phản biện của các cơ quan báo chí, đấu tranh chống tiêu cực, tham nhũng, lãng phí và các tệ nạn xã hội…Chưa hoàn toàn chủ động định hướng, cung cấp kịp thời để làm chủ thông tin, lấy thông tin tích cực, chính thống đấu tranh chống lại các thông tin sai trái, bịa đặt, vu cáo, phản động trên mạng xã hội, internet. Việc khai thác, phát triển những tiện ích, lợi thế của thông tin điện tử, mạng xã hội… còn hạn chế. Việc giữ gìn và phát huy truyền thống văn hóa dân tộc, tiếp thu tinh hoa văn hóa nhân loại chưa được quan tâm đúng mức; chưa làm tốt việc dự báo, định hướng để góp phần thúc đẩy phát triển kinh tế – xã hội của đất nước.
Công tác tuyên truyền, quảng bá hình ảnh Việt Nam ổn định và phát triển, nâng cao uy tín, vị thế và ảnh hưởng của Việt Nam ở khu vực và trên trường quốc tế còn hạn chế. Việc kết hợp đưa thông tin ra nước ngoài và thông tin chính thống từ thế giới vào Việt Nam chưa chặt chẽ, hiệu quả; do đó chưa hạn chế được nhiều tác động tiêu cực của những thông tin, luận điệu sai trái, xuyên tạc của các thế lực cơ hội, thù địch.
Chưa phát triển nhanh, mạnh, vững chắc với cơ cấu, quy mô hợp lý các loại hình thông tin theo hướng chuyên nghiệp, hiện đại, chất lượng, hiệu quả, phù hợp xu thế phát triển khoa học và công nghệ, thông tin, truyền thông thế giới, đáp ứng quyền tiếp cận thông tin của nhân dân, phù hợp với sự phát triển kinh tế – xã hội của đất nước, ngang tầm khu vực và thế giới… Vẫn còn tình trạng thông tin thiếu cân đối, chưa đảm bảo sự đồng đều về phân bố và khoảng cách hưởng thụ thông tin của nhân dân giữa các vùng, miền.
3. Giải pháp tăng cường bảo vệ nền tảng của Đảng cộng sản Việt Nam
Một là, Nâng cao nhận thức của cấp ủy, thủ trưởng các cơ quan, ban, ngành, địa phương về vai trò của công tác bảo vệ chính trị nội bộ Đảng với bảo vệ nền tảng tư tưởng của Đảng, đấu tranh phản bác các quan điểm sai trái, thù địch. Đây là vấn đề rất quan trọng bởi cấp ủy, thủ trưởng các cơ quan, đơn vị, địa phương chịu trách nhiệm chính trong thực hiện nhiệm vụ bảo vệ chính trị nội bộ, bảo vệ nền tảng tư tưởng của Đảng, đấu tranh phản bác các quan điểm sai trái, thù địch tại đơn vị, địa phương mình. Trong xác định nội dung, biện pháp thực hiện công tác bảo vệ chính trị nội bộ, cấp ủy, thủ trưởng các cơ quan, đơn vị, địa phương cần bám sát Văn kiện Đại hội XII, XIII của Đảng, Chỉ thị số 39-CT/TW, ngày 18/8/2014 của Bộ Chính trị khóa XII về “Tăng cường công tác bảo vệ chính trị nội bộ trong tình hình mới”, Nghị quyết số 04-NQ/TW, ngày 30/10/2016 Hội nghị lần thứ tư Ban Chấp hành Trung ương Đảng khóa XII về “Tăng cường xây dựng, chỉnh đốn Đảng; ngăn chặn, đẩy lùi sự suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống, những biểu hiện “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” trong nội bộ”, hướng tới mục tiêu bảo vệ nền tảng tư tưởng của Đảng, chủ động phát hiện, vô hiệu hóa những nhân tố xâm hại hoặc đe dọa xâm hại sự ổn định, an toàn của nội bộ, nền tảng tư tưởng của Đảng; phát hiện, khắc phục những sơ hở, thiết sót trong công tác cán bộ, những vụ việc phức tạp, nhạy cảm phát sinh trong nội bộ, không để các thế lực thù địch, phản động lợi dụng tuyên truyền, kích động chống phá.
Hai là, nâng cao lập trường, bản lĩnh chính trị, trí tuệ, tính chiến đấu của cán bộ, đảng viên Cấp ủy, thủ trưởng các cơ quan, đơn vị, địa phương thường xuyên phối hợp lực lượng chuyên trách về bảo vệ chính trị nội bộ tổ chức tuyên truyền, giáo dục cho cán bộ, đảng viên nhận thức rõ âm mưu, thủ đoạn hoạt động chống phá của các thế lực thù địch, phản động, phần tử chống đối, cơ hội chính trị. Trong đó, chú trọng nâng cao nhận thức cho cán bộ, đảng viên về phương thức, thủ đoạn của các đối tượng lợi dụng internet, mạng xã hội để phát tán thông tin sai trái, thù địch; chỉ rõ tính chất phản khoa học, phản cách mạng, cơ hội chính trị, mục đích sâu xa của những quan điểm sai trái, thù địch vốn được che đậy dưới những danh nghĩa có vẻ rất tiến bộ. Tuyên truyền, giáo dục cho cán bộ, đảng viên ý thức bảo vệ bí mật nhà nước trên không gian mạng; kỹ năng nhận diện, “ứng xử” với thông tin xấu độc, quan điểm sai trái, thù địch; huy động cán bộ, đảng viên tích cực tham gia bảo vệ nền tảng tư tưởng của Đảng trên không gian mạng. Tăng cường trao đổi thông tin hai chiều để kịp thời nắm bắt những vấn đề cán bộ, đảng viên còn băn khoăn, chưa nắm vững để giải thích, cung cấp thông tin kịp thời, chính xác, đúng định hướng, phù hợp với từng diện đối tượng.
Ba là, tập trung xây dựng đội ngũ cán bộ lãnh đạo các cấp để thực sự trở thành nòng cốt trong việc tổ chức công tác bảo vệ nền tảng tư tưởng tại cơ quan, đơn vị, địa phương. Đội ngũ cán bộ lãnh đạo các cấp là nòng cốt của hệ thống chính trị, có khả năng tác động, ảnh hưởng đến cán bộ, đảng viên trong cơ quan, đơn vị. Đội ngũ này phải thật sự vững vàng, kiên định về tư tưởng chính trị, có đủ tri thức và khả năng lập luận sắc bén để lan tỏa đường lối, chủ trương của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước, lý giải các vấn đề thực tiễn đặt ra, phản bác các quan điểm sai trái, xuyên tạc. Muốn đạt được yêu cầu trên, bên cạnh các biện pháp thẩm định tiêu chuẩn chính trị theo Quy định số 126-QĐ/TW ngày 28/2/2018 của Bộ Chính trị “Một số vấn đề về bảo vệ chính trị nội bộ Đảng”, cần đổi mới công tác đào tạo, bồi dưỡng cán bộ lãnh đạo, quản lý theo hướng chú trọng hơn nữa việc tích hợp các nội dung bảo vệ chính trị nội bộ, bảo vệ nền tảng tư tưởng của Đảng, đấu tranh phản bác các quan điểm sai trái, thù địch vào chương trình, giáo trình và trong từng bài giảng cụ thể. Thông qua đó, từng cán bộ lãnh đạo, quản lý xác định rõ hơn vai trò, trách nhiệm cá nhân trong công tác bảo vệ chính trị nội bộ, bảo vệ nền tảng tư tưởng của Đảng, đấu tranh phản bác các quan điểm sai trái, thù địch.
Bốn là, chuyển mạnh trọng tâm của công tác bảo vệ chính trị nội bộ sang nắm và giải quyết vấn đề chính trị hiện nay và bảo vệ cán bộ, đảng viên trên không gian mạng. Tăng cường nắm diễn biến về tư tưởng của cán bộ, đảng viên, nhất là ở những cơ quan, tổ chức, đơn vị, địa phương có đơn, thư tố cáo, khiếu kiện kéo dài, mâu thuẫn, mất đoàn kết nội bộ, những sơ hở, thiếu sót trong việc thực hiện chính sách, pháp luật để tham mưu khắc phục, giải quyết dứt điểm, có lý, có tình, tạo được sự đồng thuận cao trong nội bộ và ngoài xã hội, không để phát sinh vấn đề phức tạp mới, không tạo cớ cho các thế lực thù địch lợi dụng chống phá. Kịp thời phát hiện, đấu tranh phê phán các biểu hiện suy thoái tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống, “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” ngay từ ở cấp chi bộ; chấn chỉnh tình trạng suy giảm sức chiến đấu, “thấy đúng không bảo vệ, thấy sai không đấu tranh” của một bộ phận cán bộ, đảng viên. Có biện pháp bảo vệ cán bộ, đảng viên trên không gian mạng; đấu tranh có hiệu quả với hoạt động lợi dụng không gian mạng để bôi nhọ, xúc phạm danh dự, nhân phẩm, đời tư của cán bộ, đảng viên. Phát hiện, xử lý các trường hợp sử dụng mạng xã hội đăng tải, chia sẻ các bài viết, thông tin xâm hại hình ảnh, lợi ích của tổ chức, cá nhân, gây chia rẽ nội bộ, thông tin chưa được kiểm chứng, chưa chính xác, vi phạm quy tắc ứng xử của cán bộ, công chức, viên chức.
Năm là, hoàn thiện quy chế, quy định tạo hành lang pháp lý để điều chỉnh thái độ, hành vi của cán bộ, Đảng viên. Cơ quan bảo vệ chính trị nội bộ cần tham mưu cấp ủy, thủ trưởng các cơ quan, đơn vị hoàn thiện và tổ chức quán triệt, triển khai các quy chế, quy định quản lý cán bộ, đảng viên như: kỷ luật phát ngôn, quy chế bảo vệ bí mật nhà nước của cơ quan, đơn vị, quy chế trao đổi, cung cấp thông tin; quy chế sử dụng mạng xã hội. Thông qua đó, cán bộ, đảng viên nhận thức rõ những điều được làm, những điều không được làm để tự giác điều chỉnh hành vi của mình cho phù hợp. Nghiên cứu hoàn thiện quy định về việc cán bộ, đảng viên tham gia góp ý, kiến nghị chủ trương, chính sách của Đảng, pháp luật của Nhà nước theo hướng hoan nghênh, tiếp thu những ý kiến tâm huyết, mang tính xây dựng (kể cả “ý kiến khác”), đồng thời kiên quyết đấu tranh xử lý các trường hợp lợi dụng góp ý với Đảng, Nhà nước để gây rối nội bộ, tuyên truyền quan điểm sai trái, thù địch. Sớm xây dựng quy chế quản lý hoạt động của cán bộ, đảng viên trên không gian mạng theo hướng cá thể hóa trách nhiệm của từng cán bộ, đảng viên gắn với trách nhiệm của tổ chức quản lý cán bộ, đảng viên đó.
Sáu là, chú trọng bảo vệ chính trị nội bộ các cơ quan báo chí, xuất bản, thông tin truyền thông và bộ phận trực tiếp tham gia thực hiện nhiệm vụ bảo vệ nền tảng tư tưởng của Đảng, đấu tranh phản bác các quan điểm sai trái, thù địch. Đảm bảo các cơ quan báo chí, thông tin truyền thông phải thực sự là cơ quan ngôn luận của Đảng, Nhà nước, đoàn thể chính trị – xã hội, là diễn đàn của nhân dân, cung cấp kịp thời, đầy đủ các thông tin chính thống để định hướng dư luận; xử lý nghiêm các trường hợp vi phạm Luật Báo chí, Luật Xuất bản, quy định về đạo đức nghề nghiệp, gây ảnh hưởng xấu đến dư luận cán bộ, đảng viên và nhân dân. Đội ngũ cán bộ nòng cốt tham gia bảo vệ nền tảng tư tưởng của Đảng, đấu tranh phản bác các quan điểm sai trái, thù địch phải được lựa chọn kỹ, thật sự vững vàng, kiên định về tư tưởng chính trị để không dao động trước bất kỳ tình huống nào, được tổ chức và hoạt động theo những quy định, quy ước chặt chẽ, thống nhất để hoàn thành tốt nhiệm vụ chính trị được giao. Bảo vệ chính trị nội bộ là bảo vệ lý tưởng, uy tín, vị thế chính trị của Đảng, bảo vệ sự đoàn kết, thống nhất, bảo vệ nền tảng tư tưởng của Đảng, tạo sự đồng thuận xã hội, củng cố niềm tin của cán bộ, đảng viên và nhân dân với Đảng. Thực tiễn đặt ra cho công tác bảo vệ chính trị nội bộ những yêu cầu, nhiệm vụ ngày càng cao, đòi hỏi cấp ủy, tổ chức đảng, chính quyền, tổ chức, đơn vị phải thực hiện đồng bộ nhiều giải pháp để nâng cao chất lượng công tác bảo vệ chính trị nội bộ, góp phần phát huy tốt vai trò quan trọng để bảo vệ vững chắc nền tảng tư tưởng của Đảng, tạo đồng thuận trong nội bộ và ngoài xã hội để thực hiện thắng lợi hai nhiệm vụ chiến lược là xây dựng và bảo vệ Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa.
Bảy là, cấp ủy, người đứng đầu tổ chức đảng, cơ quan, đơn vị phải nắm bắt diễn biến tư tưởng, tâm tư nguyện vọng của đảng viên để có biện pháp giải quyết kịp thời. Việc nắm bắt tình hình tư tưởng, tâm trạng, dư luận xã hội phải cụ thể, chính xác (về nội dung, đối tượng) để có biện pháp xử lý cụ thể. Tuyệt đối không được dựa vào “tin đồn” theo kiểu “nghe nói” mà không có chủ thể cụ thể. Phát hiện sớm những đối tượng lợi dụng quyền khiếu nại, tố cáo để gây ảnh hưởng xấu đến nội bộ cơ quan, tổ chức.
Tám là, tăng cường công tác tuyên truyền, phổ biến, giáo dục pháp luật, nhất là Luật An ninh mạng; các quy tắc ứng xử trên môi trường mạng xã hội đối với cán bộ, đảng viên và các tầng lớp nhân dân để nâng cao nhận thức, trách nhiệm trong chấp hành các quy định của Đảng và Nhà nước về quyền thông tin, phạm vi thông tin khi tham gia các mạng xã hội. Mỗi người phải ý thức được quyền, nghĩa vụ của mình khi tham gia các mạng xã hội để không trở thành “cái loa” không công hay vô trình trở thành “cộng tác viên”, tiếp tay các thế lực phản động, thù địch chống phá Đảng, Nhà nước và chế độ ta; đồng thời, xử lý nghiêm các trường hợp lợi dụng tự do, dân chủ, đưa tin bịa đặt, sai sự thật.
B. ĐẤU TRANH PHẢN BÁC CÁC QUAN ĐIỂM SAI TRÁI, THÙ ĐỊCH
Sự kiện Đảng Cộng sản Việt Nam ra đời mùa Xuân năm 1930 là dấu mốc lịch sử trọng đại, bước ngoặt quan trọng trong tiến trình lịch sử cách mạng Việt Nam, mốc son chói lọi trên con đường phát triển của dân tộc. Đến nay, suốt 95 năm lãnh đạo cách mạng Việt Nam, 39 năm tiến hành công cuộc đổi mới, 34 năm thực hiện Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội, Đảng ta luôn phải đối mặt với nhiều âm mưu, thủ đoạn chống phá, công kích của các thế lực thù địch, phản động, phần tử cơ hội chính trị. Không từ một thủ đoạn nào, bọn chúng ra sức gây nhiễu, tạo khoảng trống ý thức hệ trong cán bộ, đảng viên, kích động, thúc đẩy quá trình “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” hòng làm lung lạc niềm tin của nhân dân vào Đảng, vào con đường đi lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam.
1. Khái niệm chung
Đặt trong quan hệ với chế độ xã hội, “quan điểm sai trái, thù địch” có thể khái quát là những lời nói, bài viết, hành động,… của cá nhân, nhóm xã hội (chủ thể) phản ánh không đúng thực tế đời sống chính trị, kinh tế, xã hội,… của một quốc gia, “thổi phồng” tiêu cực, “bơm căng” mâu thuẫn, “bóp méo” chính sách thực tế với mục đích làm thay đổi, sụp đổ chế độ chính trị, tan rã hệ thống chính quyền, gây mất đoàn kết trong nhân dân,… hướng đến mục tiêu thiết lập nên một chế độ chính trị, một chính quyền mới theo mong muốn của chủ thể. Những quan điểm sai trái, thù địch thường được triển khai bằng cách tung ra các khẩu hiệu, những lời tuyên bố, phân tích, đánh giá không đúng sự thật trên các lĩnh vực của đời sống xã hội, nhằm khiêu khích, bôi nhọ, đe dọa, gây mâu thuẫn trong nội bộ hệ thống chính trị quốc gia; đào sâu, xuyên tạc các mâu thuẫn vốn có trong cơ chế, chính sách của Nhà nước; gây mâu thuẫn giữa chính quyền với các tầng lớp nhân dân; gây mâu thuẫn giữa quốc gia này với các quốc gia khác về các vấn đề kinh tế, chính trị, biên giới, quốc phòng, an ninh;… để chuyển hóa dần ý thức xã hội, tiến tới hình thành những hoạt động tiêu cực hướng đến xóa bỏ chế độ chính trị đương thời.
Quan điểm sai trái, thù địch luôn xuất hiện trong suốt chiều dài lịch sử dựng nước và giữ nước của dân tộc ta với nhiều mức độ và thủ đoạn ngày càng tinh vi, diễn biến ngày càng phức tạp, phạm vi chống phá ngày càng rộng lớn. Đặc biệt, trong suốt thời gian từ sau Cách mạng Tháng Tám năm 1945 đến nay, các thế lực thù địch, phản động trong và ngoài nước thường bám vào các vấn đề dân tộc, tôn giáo, nhân quyền, dân chủ để đưa ra những quan điểm sai trái, thù địch nhằm chống phá Đảng, Nhà nước và nhân dân ta trên mọi lĩnh vực của đời sống kinh tế – xã hội đất nước. Nhìn chung, các quan điểm sai trái, thù địch chống phá Việt Nam luôn có mối quan hệ chặt chẽ với tình hình “diễn biến hòa bình” trên thế giới.
Kể từ khi chủ nghĩa xã hội ra đời ở Liên Xô đến nay, mục tiêu nhất quán của chủ nghĩa đế quốc là xóa bỏ chủ nghĩa xã hội. Để thực hiện mục tiêu này, các thế lực thù địch, phản động đã không từ một âm mưu, thủ đoạn thâm độc nào, trong đó có “diễn biến hòa bình”. Bản chất cốt lõi của những quan điểm sai trái, thù địch chống phá các nước xã hội chủ nghĩa là sự phản ánh mục tiêu xuyên suốt của chiến lược “diễn biến hòa bình” mà các nước phương Tây và các thế lực thù địch, phản động thực hiện đối với các nước xã hội chủ nghĩa, trong đó có Việt Nam. Những chiến lược, sách lược, chiêu bài “diễn biến hòa bình” của các thế lực thù địch, phản động, chống phá chế độ xã hội chủ nghĩa được biểu hiện qua việc truyền bá, loan truyền những quan điểm sai trái, thù địch, nhằm phủ định nền tảng tư tưởng chính trị, phá vỡ khối đoàn kết dân tộc, làm khủng hoảng kinh tế – xã hội, giảm sút niềm tin của người dân vào chế độ và cuối cùng là làm tan rã chế độ xã hội chủ nghĩa ở các nước.
Ở Việt Nam, trong nhiều năm qua, bản chất của việc tiến hành những “quan điểm sai trái, thù địch” là nhằm mục tiêu xóa bỏ vai trò cầm quyền của Đảng Cộng sản Việt Nam; muốn Việt Nam từ bỏ con đường đi lên xã hội xã hội chủ nghĩa; thay đổi chế độ chính trị theo hướng biến Việt Nam thành “sân sau”, thành bộ phận lệ thuộc vào hệ thống tư bản chủ nghĩa trên thế giới. Trong đó, “coi việc chống phá Đảng Cộng sản là một nhiệm vụ cơ bản, một khâu đột phá quyết định”.
2. Nhận diện một số quan điểm sai trái, thù địch mà các thế lực thù địch, phản động thường sử dụng
Một là, chống phá nền tảng tư tưởng của Đảng. Nền tảng tư tưởng của Đảng ta là chủ nghĩa Mác-Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh. Nền tảng tư tưởng đúng đắn đó là kim chỉ nam dẫn dắt dân tộc ta đi từ thắng lợi này đến thắng lợi khác, dưới sự lãnh đạo của Đảng.
Thế nhưng, cố tình phủ nhận tính cách mạng, khoa học của chủ nghĩa Mác-Lênin, các thế lực thù địch rêu rao quan điểm cho rằng: “Chủ nghĩa Mác-Lênin đã lỗi thời, chủ nghĩa xã hội khoa học không có sức sống”, là “bóng ma ám ảnh châu Âu”, những thất bại của chủ nghĩa xã hội và chủ nghĩa cộng sản là do “những chính sách Mác-Lênin bắt nguồn từ một nhận thức sai về lịch sử và về bản chất con người”. Đối với tư tưởng Hồ Chí Minh, các thế lực thù địch, phản động đã nêu các quan điểm có tính chất xuyên tạc, bóp méo, thậm chí vu cáo, dựng chuyện, nhằm bôi nhọ đời tư, hạ thấp uy tín của Chủ tịch Hồ Chí Minh. Chúng thường xuyên bịa đặt những luận điệu như: “Nhật ký trong tù không phải của Hồ Chí Minh”, “Hồ Chí Minh bắt đầu nảy ra tư tưởng cứu nước kể từ khi Pháp bác đơn cho theo học trường thuộc địa”, rằng Đảng Cộng sản Việt Nam “sáng tác ra tư tưởng Hồ Chí Minh để giúp Đảng chỉnh hướng trong cơn bối rối”.
Hai là, chống phá Cương lĩnh, đường lối chính trị của Đảng. Nhờ xác định Cương lĩnh, đường lối đúng đắn nên Đảng ta lãnh đạo nhân dân ta giành thắng lợi trong 2 cuộc chống thực dân Pháp, đế quốc Mỹ, đất nước ta từ một nền kinh tế nghèo nàn, lạc hậu đã thoát khỏi tình trạng chậm phát triển, bước vào hàng ngũ các quốc gia có thu nhập trung bình, có tốc độ tăng trưởng cao ở khu vực Đông Nam Á; trở thành thành viên có trách nhiệm, tích cực trong cộng đồng quốc tế. Đặc biệt, Đảng ta nắm vững và xử lý hài hòa các mối quan hệ lớn, như mối quan hệ giữa đổi mới kinh tế với chính trị; giữa tăng trưởng kinh tế và phát triển văn hóa, thực hiện tiến bộ, công bằng xã hội và bảo vệ môi trường; giữa Đảng lãnh đạo, Nhà nước quản lý, nhân dân làm chủ; giữa độc lập tự chủ và hội nhập quốc tế;…
Tuy nhiên, các thế lực thù địch, phản động cố tình phủ nhận tính đúng đắn của Cương lĩnh, đường lối chính trị của Đảng ta, phủ nhận những thành quả cách mạng của nhân dân ta, đồng thời cổ xúy, tán dương chủ nghĩa tư bản, dân chủ tư sản, yêu cầu phải thực hiện tư nhân hóa hoàn toàn theo kiểu tư bản, thực hiện đa nguyên chính trị, đa đảng đối lập… và cho rằng nếu không thực hiện như thế, có nghĩa là Đảng Cộng sản Việt Nam đang “bảo thủ, giáo điều, cứng nhắc, lỗi thời”. Thực chất, việc chống phá Cương lĩnh, đường lối chính trị của Đảng là nhằm phủ nhận vai trò lãnh đạo và cầm quyền của Đảng Cộng sản Việt Nam, tiến tới thiết lập chế độ đa đảng.
Ba là, chống phá tổ chức của Đảng. Xây dựng tổ chức đảng trong sạch, vững mạnh, đạo đức, văn minh, đủ năng lực lãnh đạo và sức chiến đấu là nhiệm vụ, mục tiêu xuyên suốt, cốt lõi, bảo đảm sự tồn tại và giữ vững vai trò lãnh đạo của Đảng đối với cách mạng nước ta. Hơn 90 năm qua, kể từ khi thành lập đến nay, Đảng ta không ngừng xây dựng, chỉnh đốn để luôn xứng đáng là đội tiên phong của giai cấp công nhân, nhân dân lao động và dân tộc; là biểu tượng của trí tuệ, lương tâm và danh dự của dân tộc.
Trong công tác tổ chức Đảng, các thế lực thù địch, phản động tập trung chống phá các nguyên tắc xây dựng Đảng, đặc biệt là nguyên tắc “tập trung dân chủ”. Chúng thường rêu rao luận điệu: “Thực hiện tập trung dân chủ sẽ dẫn đến mất dân chủ trong Đảng, làm cho Đảng rơi vào độc đoán, chuyên quyền” và tích cực tuyên truyền, khuyến khích thực hiện “dân chủ tuyệt đối”, “dân chủ phi chính trị”. Họ còn ra sức cổ vũ cho cái gọi là “bất đồng chính kiến” hòng tạo những mâu thuẫn, chia rẽ trong nội bộ Đảng. Họ tích cực o bế những phần tử bất mãn, cơ hội chính trị, nhằm dựng nên “những ngọn cờ” chống phá Đảng, Nhà nước ta. “Họ đối lập những người lãnh đạo Đảng với đông đảo đảng viên, chia rẽ lớp đảng viên này với lớp đảng viên khác, mưu toan gây ra mâu thuẫn nội bộ”
Với chiêu bài này, các thế lực thù địch, phản động hướng đến mục tiêu phá vỡ sự thống nhất, đoàn kết của Đảng, âm mưu làm tê liệt hoặc tan rã tổ chức đảng, làm cho năng lực lãnh đạo và sức chiến đấu của tổ chức đảng, của đảng viên suy yếu dần, tạo mảnh đất màu mỡ cho việc phát triển các “thế lực dân chủ”.
Bốn là, chống phá mối liên hệ giữa Đảng với nhân dân. Từ khi ra đời đến nay, Đảng ta luôn xác định mối liên hệ, gắn bó máu thịt với nhân dân. Trong các Cương lĩnh, đường lối chính trị đề ra, Đảng luôn quán triệt nguyên tắc “lấy dân làm gốc”, bao nhiêu quyền hành đều từ dân, bao nhiêu lực lượng đều do dân; luôn giáo dục mọi cán bộ, đảng viên phải yêu dân, kính dân, lắng nghe dân, thấu hiểu dân và phải hết sức làm điều có lợi cho dân.
Tuy nhiên, các thế lực thù địch, phản động luôn tìm mọi cách để chia rẽ mối quan hệ giữa Đảng với nhân dân. Chúng tuyên truyền, kích động, chuyển hóa những xung đột xã hội thành mâu thuẫn giữa chính quyền, lực lượng vũ trang với nhân dân. Chúng cố tình khoét sâu những khuyết điểm, sai phạm của một số cán bộ, đảng viên; thổi phồng, quy chụp, làm phức tạp hóa, chính trị hóa những khuyết điểm, sai phạm; lợi dụng các phần tử bất mãn, phản động đội lốt tôn giáo, dân tộc để kích động đồng bào tư tưởng kỳ thị, hiềm khích, ích kỷ, hẹp hòi, cái gọi là “hận thù dân tộc”, nhằm gây bất ổn trong nhân dân, âm mưu bạo động lật đổ chế độ xã hội chủ nghĩa của chúng ta từ bên trong.
Năm là, chống phá những thành tựu xây dựng, phát triển đất nước ta dưới sự lãnh đạo của Đảng. Việt Nam đang vững bước tiến lên trên con đường xây dựng xã hội “Dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh” với nhiều thành tựu đạt được trên tất cả các lĩnh vực của đời sống xã hội. Do quá độ lên chủ nghĩa xã hội chưa có tiền lệ trong lịch sử, nên không tránh khỏi những sai lầm, khuyết điểm. Đảng ta nghiêm túc, thẳng thắn nhìn nhận, đúc rút kinh nghiệm, bài học để lãnh đạo công cuộc đổi mới ngày càng phù hợp với các quy luật phát triển khách quan của thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội. Thế nhưng, các thế lực thù địch, phản động cố tình khoét sâu, thổi phồng những sai lầm, phủ định những thành tựu chúng ta đạt được hòng phủ nhận vai trò lãnh đạo, đường lối chính trị của Đảng ta.
Ngoài ra, các thế lực thù địch, phản động triệt để lợi dụng mạng xã hội để phát tán các quan điểm sai trái, thù địch phủ nhận những thành quả cách mạng để chống phá ta. Thời gian qua, trên một số trang mạng xã hội xuất hiện nhiều bộ sách, tài liệu liên quan đến tôn giáo, dân tộc, địa danh, nhân vật, lịch sử, chính trị đội lốt nghiên cứu, sưu tầm… có khuynh hướng xét lại, phủ nhận quan điểm chính thức của Đảng và Nhà nước ta, khơi mào cho sự trỗi dậy của tư tưởng phản động, lạc hậu, kích động sự thù hận mù quáng,… Việc nhận diện và nắm rõ bản chất những luận điệu sai trái, thù địch là cơ sở quan trọng để chúng ta kịp thời có những biện pháp phản bác, đấu tranh, góp phần bảo vệ nền tảng tư tưởng của Đảng ta và sự nghiệp cách mạng của nhân dân ta.
C. YÊU CẦU ĐẶT RA ĐỐI VỚI NHIỆM VỤ BẢO VỆ NỀN TẢNG TƯ TƯỞNG CỦA ĐẢNG, ĐẤU TRANH CHỐNG CÁC QUAN ĐIỂM SAI TRÁI, THÙ ĐỊCH
Công tác bảo vệ nền tảng tư tưởng của Đảng, đấu tranh phản bác các quan điểm sai trái, thù địch là nhiệm vụ quan trọng, lâu dài của cả hệ thống chính trị và toàn thể nhân dân. Thời gian tới, để bảo đảm hiệu quả cao nhất, cần mạnh dạn hoàn thiện, bổ sung và đổi mới phương thức bảo vệ nền tảng tư tưởng của Đảng, đấu tranh phản bác quan điểm sai trái, thù địch qua một số giải pháp sau:
Một là, tăng cường sự lãnh đạo, chỉ đạo của Ðảng, chính quyền từ Trung ương đến cơ sở; huy động sức mạnh tổng hợp của cả hệ thống chính trị trong bảo vệ nền tảng tư tưởng của Đảng, đấu tranh chống các quan điểm sai trái, thù địch. Cấp ủy, chính quyền các cấp và đội ngũ cán bộ chủ chốt phải nắm vững chủ nghĩa Mác – Lê-nin, tư tưởng Hồ Chí Minh, chủ trương, đường lối của Ðảng và chính sách, pháp luật của Nhà nước; nhận diện rõ các quan điểm sai trái, thù địch để có chủ trương, biện pháp lãnh đạo, chỉ đạo sát với tình hình thực tế. Phát huy vai trò nòng cốt của cấp ủy, chính quyền các cấp, sự phối hợp của các đơn vị, địa phương. Xác định rõ, việc bảo vệ nền tảng tư tưởng của Ðảng, phản bác quan điểm sai trái thù địch không chỉ có bộ phận chuyên trách, mà còn là nhiệm vụ của cả hệ thống chính trị và của toàn thể nhân dân. Ban Chỉ đạo 35 cần xây dựng và ban hành “Chiến lược quốc gia về công tác bảo vệ nền tảng tư tưởng của Đảng, đấu tranh chống quan điểm sai trái, thù địch”.
Hai là, xây dựng Đảng thực sự trong sạch, vững mạnh, đấu tranh không khoan nhượng với mọi biểu hiện của sự suy thoái, “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa”, tham nhũng, tiêu cực. Đảng phải tự cường, thực sự trong sạch, vững mạnh trên tất cả các mặt về chính trị, tư tưởng, đạo đức, tổ chức và cán bộ… để có khả năng tự bảo vệ mình. Do vậy, cần kết hợp chặt chẽ giữa “xây và chống” trong xây dựng và thực hành đạo đức cách mạng; đẩy mạnh thực chất công cuộc xây dựng và chỉnh đốn Đảng, tránh việc triển khai theo kiểu hình thức.
Ba là, thực hiện bảo vệ nền tảng tư tưởng của Đảng, đấu tranh phản bác các quan điểm sai trái, thù địch bằng nhiều hình thức đa dạng, thiết thực, hiệu quả. Công tác này không được áp đặt bằng mệnh lệnh hành chính, chủ quan, duy ý chí, mà phải dựa trên sự tự giác, có trách nhiệm của mỗi cán bộ, đảng viên và nhân dân. Thông tin phản bác phải được phân tích, luận giải có lý lẽ, dựa trên cơ sở thực tiễn khách quan, tăng sức thuyết phục; nắm vững trình độ, nhu cầu, nguyện vọng, tâm lý của từng nhóm đối tượng để có phương thức phù hợp. Cụ thể: Sử dụng “người thật, việc thật” đấu tranh với các quan điểm phản động, sai trái, thù địch; cùng với lấy phẩm chất, đạo đức, hành động đúng đắn, gương mẫu của đội ngũ cán bộ, đảng viên phản bác lại luận điệu xuyên tạc, bôi nhọ, vu khống…; Phân biệt “phản động” với “yêu nước” thông qua nhận thức, tư duy, hành động của từng cán bộ, đảng viên và nhân dân trên cơ sở xây dựng “tư duy mở” về “phản biện”, “trái chiều”, nhưng mang tính tích cực, theo đó chấp nhận tư duy phản biện, đối lập tích cực, không được nâng quan điểm hoặc chụp mũ, đồng thời cần nhận thức và xác định lại chính xác “nội dung tích cực, thể hiện lòng yêu nước”, tránh thực hiện phương thức đấu tranh không phù hợp, dễ bị thế lực thù địch lợi dụng, xuyên tạc trở thành tiêu cực, “tự diễn biến, tự suy thoái”, có thể biến chuyển thành phản động; Đổi mới phương thức lãnh đạo của Đảng bằng việc nhận thức và áp dụng đúng đắn “nguyên tắc tập trung dân chủ” trong thực tiễn, tránh việc lợi dụng nguyên tắc này để áp dụng theo kiểu độc quyền, tập trung, nhưng không dân chủ.
Bốn là, chú trọng và nâng cao hiệu quả xây dựng “thế trận lòng dân” bảo vệ nền tảng tư tưởng của Đảng, đấu tranh phản bác các quan điểm sai trái, thù địch trong tình hình mới. Để thực hiện tốt phương thức này, trong thời gian tới phải thực hiện đồng thời các vấn đề: Quán triệt rõ, nhân dân đóng vai trò chủ thể, vị trí trung tâm trong sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc; Đảng không ngừng chăm lo, không ngừng cải thiện đời sống vật chất và tinh thần của nhân dân; phổ biến, tuyên truyền, làm tốt công tác dân vận để nhân dân tin, hiểu, tự hào với đường lối, chủ trương của Đảng và chính sách, pháp luật của Nhà nước.
Năm là, xây dựng phương thức “giá trị pháp lý – chuẩn mực cao nhất” làm nền tảng cho việc đấu tranh, phản bác các quan điểm sai trái, thù địch, xuyên tạc, bôi nhọ. Phương thức này muốn đạt hiệu quả cao nhất, thời gian tới cần thực hiện: Bảo đảm văn bản của Đảng phải đúng tinh thần Hiến pháp, pháp luật, không được cao hơn, vượt ra ngoài khuôn khổ pháp luật, theo đó, các tổ chức của Đảng và đảng viên Đảng Cộng sản Việt Nam hoạt động trong khuôn khổ Hiến pháp và pháp luật; thể chế hóa triệt để, đúng tinh thần, nội dung và cách thức từ văn bản của Đảng thành văn bản của Nhà nước. Dựa trên nền tảng này để tuyên truyền, giáo dục, đồng thời để áp dụng và xử lý theo quy định của Đảng và Nhà nước.
D. KẾT LUẬN
Bảo vệ nền tảng tư tưởng của Đảng, đấu tranh phản bác các quan điểm sai trái, thù địch không chỉ mang lại những thành tựu to lớn trong lĩnh vực tư tưởng – lý luận mà còn mang đến những thành quả toàn diện trên tất cả các lĩnh vực, các mặt của đời sống xã hội; đóng góp quyết định thắng lợi của sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc thời kỳ đổi mới đất nước, với những thành tựu được thể hiện trên những khía cạnh cơ bản, đó là:
Làm thất bại âm mưu, thủ đoạn của các thế lực thù địch trong việc xóa bỏ nền tảng tư tưởng của Đảng, bảo vệ, phát triển và làm cho chủ nghĩa Mác-Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh giữ vai trò chủ đạo trong đời sống tinh thần, xã hội Việt Nam; đồng thời vô hiệu hóa các luận điệu và hoạt động phá hoại tư tưởng, lý luận của các thế lực thù địch, cơ hội chính trị; bảo vệ thành công các quan điểm, tư tưởng đổi mới của Đảng. Ngoài ra, sự lãnh đạo của Đảng cũng góp phần làm thất bại âm mưu, hoạt động “diễn biến hòa bình” của các thế lực thù địch chống phá Việt Nam; tổ chức lực lượng và các điều kiện bảo đảm cho công tác đấu tranh phòng, chống âm mưu, hoạt động “diễn biến hòa bình” chống phá Việt Nam của các thế lực thù địch. Sự ra đời và hoạt động hiệu quả của Ban Chỉ đạo 94 Trung ương, Ban Chỉ đạo 609 của Hội đồng Lý luận Trung ương, Ban Chỉ đạo 213 Trung ương về đấu tranh chống “diễn biến hòa bình” trên lĩnh vực văn hóa, văn học, nghệ thuật; Ban Chỉ đạo 94 Đảng ủy Công an Trung ương; Ban Chỉ đạo 94 Quân ủy Trung ương và các Ban Chỉ đạo 94 trực thuộc Quân ủy Trung ương, Bộ Tư lệnh 86, Lực lượng 47, cơ quan thường trực, lực lượng nòng cốt, lực lượng chuyên sâu, lực lượng tham gia đấu tranh ở từng cấp đã góp phần làm thất bại âm mưu, hoạt động “diễn biến hòa bình” của các thế lực thù địch chống phá Việt Nam.
Chủ động phát hiện, ngăn chặn và làm thất bại những âm mưu của các thế lực thù địch xuyên tạc, chống phá quan điểm của Đảng về phát triển kinh tế ở Việt Nam làm cho nền kinh tế Việt Nam phát triển đúng định hướng XHCN, giữ được độc lập, tự chủ, không bị lệ thuộc vào nước ngoài.
Làm thất bại mọi âm mưu, hoạt động “diễn biến hòa bình” của các thế lực thù địch hòng thay đổi hệ giá trị văn hóa Việt Nam; lợi dụng đổi mới để gây chia rẽ dân tộc, tôn giáo; lợi dụng các vấn đề dân tộc, tôn giáo, dân chủ, nhân quyền để chống phá cách mạng Việt Nam. Đảng không ngừng củng cố vững chắc khối đại đoàn kết toàn dân, tăng cường sự đồng thuận xã hội. Làm thất bại âm mưu, hoạt động “diễn biến hòa bình” của các thế lực thù địch nhằm “phi chính trị hóa” lực lượng vũ trang; bảo vệ vững chắc độc lập, chủ quyền, thống nhất, toàn vẹn lãnh thổ, bảo vệ Đảng, Nhà nước, nhân dân, chế độ XHCN; bảo vệ sự nghiệp đổi mới, an ninh quốc gia, trật tự an toàn xã hội, bản sắc văn hóa dân tộc và bảo vệ lợi ích quốc gia – dân tộc.
Làm thất bại mưu đồ bao vây, cấm vận, cô lập Việt Nam, cản trở Việt Nam mở rộng quan hệ quốc tế. Việt Nam tạo được môi trường thuận lợi phục vụ cho công cuộc đổi mới, xây dựng và bảo vệ Tổ quốc. Vị thế quốc tế của Việt Nam ngày càng được nâng cao; tranh thủ được nhiều diễn đàn quốc tế để đấu tranh phòng, chống âm mưu, hoạt động “diễn biến hòa bình” của các thế lực thù địch và cơ hội chính trị.
Để bảo vệ thành quả này, Đội ngũ cán bộ, chiến sĩ phải luôn tiên phong trong mọi hoạt động, là lực lượng nòng cốt, xung kích trong công tác bảo vệ nền tảng tư tưởng của Đảng, để bảo vệ, đấu tranh phản bác có hiệu quả các quan điểm sai trái, thù địch. Đây là nội dung cơ bản, vừa là nhiệm vụ quan trọng hàng đầu, vừa là công việc tự giác, thường xuyên của mỗi cán bộ, chiến sĩ.
Tăng cường giáo dục chủ nghĩa Mác-Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, chủ trương, đường lối của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước cho cán bộ, chiến sĩ.
Bồi dưỡng, cập nhật kiến thức lý luận chính trị, quán triệt, tuyên truyền các chủ trương của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước; tổ chức các cuộc thi trực tuyến tìm hiểu về chủ nghĩa Mác-Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, về Đảng ta, về ngành Công an… nhằm thu hút đông đảo cán bộ, chiến sĩ tham gia. Đây là những quan điểm, tư tưởng đã được C.Mác, Ph.Ăngghen, V.I.Lênin và Chủ tịch Hồ Chí Minh đưa ra trong quá trình hoạt động cách mạng. Đó là những tri thức lý luận có tính cách mạng và khoa học; là vũ khí lý luận sắc bén của giai cấp công nhân và nhân dân lao động trong cuộc đấu tranh giải phóng giai cấp, giải phóng dân tộc và giải phóng toàn nhân loại. Vì vậy, việc học tập lý luận chính trị chính giúp cho mỗi cán bộ, Đảng viên, trong đó đặc biệt là cán bộ, chiến sĩ hiểu đúng bản chất, vai trò của chủ nghĩa Mác – Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh đối với sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc ở Việt Nam; đồng thời, hiểu được tầm quan trọng của việc bảo vệ nền tảng tư tưởng của Đảng trong giai đoạn hiện nay.
Tóm lại, chỉ khi có nhận thức đúng đắn, đầy đủ về trách nhiệm của người Đảng viên, nắm vững đường lối, chủ trương của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước, có kỹ năng nắm bắt, sàng lọc, xử lý tốt thông tin, có tâm huyết và bản lĩnh chiến đấu của người chiến sĩ trên mặt trận tư tưởng, thì mỗi cán bộ, Đảng viên sẽ không còn thiếu tự tin, đắn đo, e ngại mà luôn hoàn thành tốt nhiệm vụ đấu tranh bảo vệ nền tảng tư tưởng của Đảng trước sự chống phá của các thế lực thù địch hiện nay.
E. CÔNG TÁC XÂY DỰNG ĐẢNG BỘ CÔNG TY TNHH MTV DỊCH VỤ MẶT ĐẤT SÂN BAY VIỆT NAM
Thấm nhuần tư tưởng của Đảng, nhận thức rõ về chủ nghĩa mác – Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh, về vai trò lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam đối với Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa, chủ động hội nhập kinh tế quốc tế để xây dựng nền kinh tế độc lập dân chủ theo định hướng xã hội chủ nghĩa, thì Đảng bộ Tổng Công ty Hàng không Việt Nam nói chung, Đảng ủy Coogn ty TNHH MTV Dịch vụ mặt đất Sân bay Việt Nam nói riêng luôn luôn đề cao việc Xây dựng Đảng bộ đoàn kết, trong sạch, vững mạnh toàn diện; quyết tâm xây dựng Công ty phát triển bền vững, tinh gọn, hiệu quả; Đẩy mạng ứng dụng công nghệ hiện đại va mở rộng thị trường để giữ vững vị thế Công ty dịch vụ mặt đất hàng đầu Việt Nam và khu vực.
Đảng bộ Công ty TNHH MTV Dịch vụ mặt đất Sân bay Việt Nam (VIAGS) được thành lập ngày 01/01/2016 trên cơ sở hợp nhất 03 Đảng bộ xí nghiệp Thương mại mặt đất Nội Bài, Đà Nẵng và Tân Sơn Nhất với lịch sử hình thành từ năm 1993. Trải qua hơn 30 năm hình thành và phát triển, Đảng bộ VIAGS đã vượt qua nhiều thử thách, hoàn thành xuất sắc nhiệm vụ được giao, dảm bảo an ninh, an toàn tuyệt đối cho các chuyến bay, phục vụ tốt nhu cầu vận chuyển khách và hàng hóa. Từ ngày 01/04/2016, Đảng bộ Công ty đực Đảng ủy Khối doang nghiệp Trung ương quyết định giao một số quyền cấp trên cơ sở. Đảng bộ hiện có 13 tổ chức Đảng trực thuộc, gồm 03 Đảng bộ cơ sở, 01 Đảng bộ bộ phận và 09 Chi bộ. Số lượng Đảng viên là 686 đồng chí, trong đó có 648 Đảng viên chính thức và 38 Đảng viên dự bị.
Đại hội Đại biểu Đảng bộ Công ty lần thứ nhất, nhiệm kỳ 2020-2025 được tổ chức vào tháng 6/2020 trong giai đoạn dịch bệnh covid diễn biên phức tạp, ảnh hưởng nghiêm trọng đến mọi mặt đời sống, kinh tế, xã hội và tình hình sản xuất kinh doanh của Công ty, kéo theo đó là nhiều hệ lụy khác. Trong suốt nhiệm kỳ 2020-2025, quán triệt và thực hiện đúng phương châm hành động “Khát vọng vươn cao – Tự hào đổi mới” với sự lãnh đạo sáng suốt của Đảng ủy, sự nỗ lực không ngừng của tập thể cán bộ và đặc biệt là tinh thần đoàn kết, không ngại gian khó, sẵn sàng cống hiến của toàn thể cán bộ nhân viên đã giúp Công ty vượt qua khó khăn, đảm bảo hoạt động sản xuất kinh doanh, duy trì và nâng cao chất lượng dịch vụ, đảm bảo an ninh, an toàn tuyệt đối cho các chuyến bay của Vietnam Airlines và cá hãng hàng không.
Để đạt được những thành tựu này, đó là sự nỗ lực của cả tập thể, hơn hết là sự lãnh đạo, chỉ đạo đúng đắn của Đảng ủy, tập thể Lãnh đạo, Đảng bộ VIAGS. Ngay từ đầu nhiệm kỳ, Đảng ủy đã ban hành Chương trình công tác toàn khóa; Chương trình hành động thực hiện Nghị quyết Đại hội Đảng bộ Công ty lần thứ nhất; Chương trình kiểm tra giám sát của Ban Thường vụ Đảng ủy nhiệm kỳ 2020-2025, các chương trình, kế hoạch hàng năm được cụ thể hóa để lãnh đạo. Tập thể Đảng bộ luôn kiên định chủ nghĩa mác – Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh, vận dụng sáng tạo phù hợp với thực tiễn, đồng thời triển khai đầy đủ đến từng Đảng viên chỉ đạo quan trọng của Trung ương, như:
Thứ nhất, Xây dựng Đảng về chính trị, tư tưởng, đạo đức: Tăng cường bảo vệ nền tảng tư tưởng của Đảng, đấu tranh phản bác các quan điểm sai trái, thù địch trong tình hình mới; Đẩy mạnh xây dựng, chỉnh đốn Đảng và hệ thống chính trị, kiên quyết ngăn chặn, đẩy lùi, xử lý nghiêm cán bộ Đảng viên suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống, biểu hiện “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa”; Về chuẩn mực đạo đức cách mạng của cán bộ, Đảng viên trong giai đoạn mới,… Đẩy mạnh học tập và làm theo tư tưởng, đạo đức, phong cách Hồ Chí Minh: Đảng ủy đã triển khai kế hoạch chuyên đề toàn khóa về “Học tập và làm theo tư tưởng, đạo đức, phong cách Hồ Chí Minh về ý chí tự lực, tự cường và khát vọng phát triển đất nước phồn vinh, hạnh phúc” cùng các chương trình, kế hoạch học tập theo chuyên đề hàng năm, và có khen thưởng cụ thể cho Đảng viên đạt thành tích tốt.
Thứ hai, Xây dựng Đảng về tổ chức và cán bộ: Đảng ủy lãnh đạo các cấp duy trì thực hiện nghiêm túc, đúng các quy định về nội dung như: đổi mới, nâng cao chất lượng sinh hoạt chi bộ, công tác quản lý Đảng viên, thực hiện đúng nguyên tắc tổ chức, sinh hoạt Đảng. Song song đó là công tác xây dựng Đảng về cán bộ bằng việc chú trọng và duy trì đúng các quy chế, quy định hiện hành, đặc biệt là cán bộ chủ chốt, cán bộ trẻ, cán bộ nữ có chuyên môn nghiệp vụ đáp ứng yêu cầu, có trách nhiệm với công việc, bản lĩnh trong lãnh đạo và quản lý điều hành. Công tác quy hoạch, bổ nhiệm được thực hiện đúng quy định.
Thứ ba, Kiểm tra giám sát, kỷ luật Đảng và phòng chống tham nhũng, tiêu cực, chống lãng phí.
Thứ bốn, Công tác dân vận và lãnh đạo các tổ chức đoàn thể: Đảng ủy chỉ đạo các tổ chức đoàn thể duy trì thường xuyên các hoạt động thiết thực chăm lo đời sống của Người lao động như Du xuân, VIAGS – 1 nửa yêu thương (8/3), Tết trung thu,…Từ những nỗ lực trên, các đoàn thể của Công ty đã đạt được nhiều thành tích trong đó Công đoàn hoàn thành xuất sắc nhiệm vụ, trong nhiệm kỳ đặt thành tích Cờ thi đua của Tổng liên đoàn lao động Việt Nam 05 năm năm liền (2019-2023); Đoàn thanh niên hoàn thành xuất sắc nhiệm vụ, được tặng nhiều Cờ thi đua, bằng khen của Trung ương Đoàn, Đoàn Khối DNTW, Đoàn TCTHK giai đoạn 2020-2024.

Thứ năm, Đổi mới phương thức lãnh đạo của tổ chức Đảng, cấp ủy Đảng: Bao gồm tăng cường vai trò lãnh đạo trực tiếp, toàn diện của Đảng; Đổi mới phương pháp, phong cách, lề lối làm việc của cấp ủy; Đẩy mạnh ứng dụng công nghệ thông tin trong các hoạt động của Đảng; Thực hiện nghiêm quy chế làm việc của cấp ủy, tổ chức Đảng, quy chế mối quan hệ công tác giữa Đảng ủy Công ty với các cơ quan Đảng cấp trên.
Tiếp nối những thành quả đã đạt được sau Đại hội Đại biểu Đảng bộ Công ty lần thứ nhất – nhiệm kỳ 2020-2025, giai đoạn 2025-2030, ngành hàng không thế giới và Việt Nam tiếp tục tăng trưởng ngày càng mạnh mẽ với sự tham gia của nhiều hãng hàng không mới bay đến Việt Nam. Trong nước có thêm nhiều nhà ga, sân bay mới được đưa vào khai thác, do đó bên cạnh các cơ hội thì cũng có những thách thức, cạnh tranh đáng kể.

Song, bám sát tư tưởng, đường lối của Đảng và Nhà nước thì Đảng bộ luôn đề ra các mục tiêu rõ ràng, phù hợp thực tiễn “Xây dựng đội ngũ cán bộ trong sạch vững mạnh toàn diện, có bản lĩnh chính trị vững vàng, có đạo đức, lối sống giản dị, gương mẫu, có ý thức kỷ luật tốt, năng động, sáng tạo, giỏi chuyên môn nghiệp vụ, có khát vọng phấn đấu vươn lên, thích ứng với môi trường hội nhập và có khả năng làm việc trong môi trường quốc tế”.
Nhìn lại những thành tự đạt được trong nhiệm kỳ vừa qua không chỉ là bài học kinh nghiệm quý báu mà còn là động lực to lớn, hun đúc tinh thần tiên phong, doàn kết của tập thể Công ty. Với quyết tâm vững vàng, VIAGS sẵn sàng đón nhận thách thức, nỗ lực hoàn thành xuất sắc các mục tiêu mà Đại hội Đại biểu Đảng bộ Công ty nhiệm kỳ 2020-2025 đã đề ra, tiếp tục khẳng định vị thế dẫn đầu về dịch vụ mặt đất trong nước và khu vực.

Và cá nhân tôi – một Đảng viên của tổ chức Đảng bộ Công ty TNHH MTV Dịch vụ mặt đất Sân bay Việt Nam, tôi luôn ý thức được bản thân cần phải làm gì để xứng đáng đứng trong hàng ngũ của Đảng, đó là tuyệt đối trung thành với mục đích lý tưởng cách mạng của Đảng, chấp hành nghiêm chỉnh Cương lĩnh chính trị, Điều lệ Đảng, nghị quyết, chỉ thị của Đảng, pháp luật của Nhà nước; hoàn thành tốt nhiệm vụ được giao; phục tùng tuyệt đối sự phân công và điều động của Đảng; Là không ngừng học tập, rèn luyện, nâng cao trình độ kiến thức, năng lực công tác, phẩm chất chính trị, đạo đức cách mạng, có lối sống lành mạnh, đấu tranh chống chủ nghĩa cá nhân, cơ hội, cục bộ, quan liêu, tham nhũng, lãng phí và các biểu hiện tiêu cực khác. Cuối cùng, hoàn thành mọi nhiệm vụ được giao trong công việc là câu trả lời cho việc biến ý chí thành hành động.









