Trong những năm qua, xuyên suốt quá trình phát triển kinh tế của đất nước, chủ trương của Đảng là luôn khẳng định vai trò chủ đạo của kinh tế nhà nước trong nền kinh tế quốc dân (Hiến pháp Nước Cộng hòa Xã hội Chủ nghĩa Việt Nam cũng nêu: kinh tế nhà nước giữ vai trò chủ đạo). Sau gần 40 năm đổi mới, kinh tế nhà nước đã không ngừng phát triển và đóng vai trò quan trọng trong nền kinh tế Việt Nam.
Các tập đoàn kinh tế lớn như Tập đoàn Dầu khí Việt Nam, Tập đoàn Công nghiệp Than và Khoáng sản Việt Nam, Tập đoàn Công nghiệp Cao su Việt Nam… đã quản lý, khai thác các nguồn tài nguyên thiên nhiên của đất nước để vừa phục vụ sản xuất trong nước, vừa xuất khẩu thu ngoại tệ để nhập khẩu những đầu vào quan trọng cho phát triển nền kinh tế, để tăng thu ngân sách. Hay Tập đoàn Điện lực Việt Nam (EVN), Tập đoàn Viễn thông Quân đội (Viettel) là các tập đoàn lớn đã góp phần xây dựng mạng lưới điện, viễn thông – là nguồn lực quan trọng cho phát triển kinh tế và xã hội của quốc gia.
Tuy nhiên, trong bối cảnh xu thế vận động mới của thế giới, nội hàm về vai trò chủ đạo của kinh tế nhà nước cần tiếp thục được đánh giá, điều chỉnh để phù hợp với tình hình mới của thế giới và Việt Nam, đặc biệt trong lĩnh vực đầu tư, tạo ra vốn mồi và môi trường kinh doanh để thu hút cho các thành phần kinh tế khác cùng tham gia và phát triển.
Bài viết sẽ hệ thống hóa về sự phát triển trong lý luận và thực trạng đối với vai trò chủ đạo của kinh tế nhà nước ở lĩnh vực đầu tư công trong các thời kỳ, đồng thời mô tả và đánh giá thực trạng đóng góp của đầu tư công và đưa ra các khuyến nghị chính sách cho bối cảnh mới.
Tại Đại hội X của Đảng, vai trò chủ đạo của KTNN trong việc đóng góp vào phát triển kinh tế như sau: “Kinh tế nhà nước giữ vai trò chủ đạo, là lực lượng vật chất quan trọng để Nhà nước định hướng và điều tiết nền kinh tế, tạo môi trường và điều kiện thúc đẩy các thành phần kinh tế cùng phát triển. Kinh tế nhà nước cùng với kinh tế tập thể ngày càng trở thành nền tảng vững chắc của nền kinh tế quốc dân”.
Đại hội X cũng chỉ rõ vai trò chủ đạo của KTNN: một là, KTNN là lực lượng vật chất giúp Nhà nước định hướng XHCN nền kinh tế quốc dân; hai là, KTNN là sức mạnh đằng sau các chính sách điều tiết của Nhà nước; ba là, hoạt động của KTNN là để tạo môi trường phát triển chung cho mọi thành phần kinh tế, chứ không phải chỉ cho riêng DNNN; bốn là, khẳng định lại một lần nữa KTNN rộng hơn DNNN, hay nói cách khác, DNNN chỉ là một bộ phận của KTNN.
Tại giai đoạn này, sự đóng góp vào phát triển kinh tế đất nước đối với kinh tế nhà là tạo nền móng, động lực cho các khu vực kinh tế khác phát triển dưới hình thức điều tiết từ doanh nghiệp nhà nước và các thành phần phi doanh nghiệp nhà nước khác.
Trong Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội (bổ sung, phát triển năm 2011), do Đại hội XI của Đảng thông qua, đã khẳng định “Phát triển nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa với nhiều hình thức sở hữu, nhiều thành phần kinh tế, hình thức tổ chức kinh doanh và hình thức phân phối.
Các thành phần kinh tế hoạt động theo pháp luật đều là bộ phận hợp thành quan trọng của nền kinh tế, bình đẳng trước pháp luật, cùng phát triển lâu dài, hợp tác và cạnh tranh lành mạnh. Kinh tế nhà nước giữ vai trò chủ đạo. Kinh tế tập thể không ngừng được củng cố và phát triển.
Kinh tế nhà nước cùng với kinh tế tập thể ngày càng trở thành nền tảng vững chắc của nền kinh tế quốc dân. Kinh tế tư nhân là một trong những động lực của nền kinh tế. Kinh tế có vốn đầu tư nước ngoài được khuyến khích phát triển”.
Tại đây, sự đóng góp của kinh tế nhà nước trong phát triển kinh tế lại một lần nữa được khẳng định đó là xây dựng nền tảng vững chắc cho các thành phần kinh tế khác phát triển, hợp tác và cạnh tranh lành mạnh.
Tổng kết sự phát triển nhận thức của Đảng trong thời kỳ đổi mới cho thấy, vai trò chủ đạo của kinh tế nhà nước đối với việc đóng góp cho phát triển trong nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa bao gồm hai vai trò chính:
(1) Doanh nghiệp nhà nước nắm giữ các lĩnh vực then chốt trong quá trình công nghiệp hóa hiện đại hóa đất nước;
(2) Khắc phục các thất bại của thị trường thông qua các công cụ điều tiết kinh tế. Các nhiệm vụ chính, lĩnh vực chính mà kinh tế nhà nước phải tham gia vào để đóng góp vào phát triển kinh tế bao gồm: quản lý và điều hành doanh nghiệp nhà nước trong các lĩnh vực mang tính định hướng nền kinh tế; đảm bảo cung ứng những hàng hóa – dịch vụ công cộng cần thiết, nhất là trong lĩnh vực kết cấu hạ tầng vật chất, quốc phòng, an ninh, một số ngành sản xuất, kinh doanh trọng yếu khác;
(3) Làm đòn bẩy đẩy nhanh tăng trưởng kinh tế, thúc đẩy sự phát triển nhanh và bền vững của toàn bộ nền kinh tế;
(4) Là lực lượng đi đầu ứng dụng tiến bộ khoa học và công nghệ, nêu gương về năng suất, chất lượng, hiệu quả kinh tế – xã hội và chấp hành pháp luật; có vai trò mở đường, hướng dẫn, hỗ trợ, tạo điều kiện, giúp đỡ và liên kết các thành phần kinh tế cùng phát triển.
Thực trạng vai trò của kinh tế Nhà nước trong thực hiện đầu tư công tại Việt Nam
Trong thời gian qua, việc sử dụng vốn đầu tư xã hội nói chung và vốn đầu tư công nói riêng được cải thiện. Theo đó, tỷ lệ vốn đầu tư phát triển toàn xã hội so với GDP được tăng lên, nếu trong giai đoạn 2016 – 2020 bằng 33,7% GDP, thì tỷ lệ tương ứng các năm 2021 là 34,16% GDP, năm 2022 là 33,85% GDP. Hệ số suất đầu tư (ICOR) giảm dần, trong giai đoạn 2016 – 2019 là 6,13 (giai đoạn 2016 – 2020 là 7,76) năm 2022 chỉ số này chỉ là 5,13.
Chỉ số ICOR giảm cho thấy cần ít vốn đầu tư hơn để tạo ra tăng trưởng, đây là tín hiệu tích cực góp phần nâng cao hiệu quả sử dụng vốn đầu tư công.
Bên cạnh đó, cơ cấu vốn đầu tư công dịch chuyển sang các ngành gắn với quá trình cơ cấu lại nền kinh tế, thúc đẩy cơ cấu lại các ngành, vùng lãnh thổ bảo đảm tương quan hợp lý giữa phát triển kinh tế – xã hội và an sinh xã hội như phát triển hạ tầng giao thông, khoa học và công nghệ, giáo dục và đào tạo, y tế và trợ giúp xã hội, khắc phục thiên tai và thích ứng với biến đổi khí hậu.
Việc chuyển dịch cơ cấu cùng với thúc đẩy giải ngân vốn đầu tư công góp phần quan trọng vào việc duy trì, phục hồi và thúc đẩy tăng trưởng kinh tế của Việt Nam thời gian qua. Tính chung giai đoạn 2016 – 2020, tỷ lệ giải ngân vốn đầu tư công đạt 91,8% kế hoạch hằng năm, đóng góp vào tăng trưởng GDP bình quân 6,01%.
Hình 1. Chỉ số ICOR của Việt Nam giai đoạn 2016 – 2022
Nguồn: Tổng cục thống kê (2024)
Trong giai đoạn 2021-2024, tỷ lệ tương ứng các năm 2021 giải ngân đạt 95,7% đóng góp vào tăng trưởng 2,58%, đặc biệt năm 2022 với tỷ lệ giải ngân đạt 91,4% đã đóng góp vào mức tăng trưởng ấn tượng 8,02%, năm 2023, tỷ lệ giải ngân ước đạt khoảng 95% cao hơn năm 2022 khoảng 3,58 điểm % tạo tác động lan tỏa tích cực đối với toàn nền kinh tế. Sang năm 2024 mục tiêu được đặt ra là giải ngân 95% vốn đầu tư công, tuy nhiên tính đến thời điểm ngày 31/10/2024 là 355.616,1 tỷ đồng, đạt 47,43% kế hoạch, đạt 52,29% kế hoạch Thủ tướng Chính phủ giao.
Đầu tư công tiếp tục phát huy vai trò dẫn dắt, thu hút các nguồn lực đầu tư từ các khu vực kinh tế ngoài nhà nước, tạo động lực tăng trưởng kinh tế. Cơ cấu vốn đầu tư trong tổng đầu tư toàn xã hội dịch chuyển tích cực, theo hướng giảm dần nhằm khuyến khích đa dạng hóa các nguồn vốn trong nền kinh tế, phù hợp với định hướng cơ cấu lại nền kinh tế, chuyển đổi mô hình tăng trưởng; khuyến khích các thành phần kinh tế ngoài nhà nước bỏ vốn đầu tư phát triển sản xuất, kinh doanh, phát triển hạ tầng kinh tế kỹ thuật.
Trong tổng vốn đầu tư toàn xã hội, đầu tư công giảm dần từ mức trung bình 39,04% giai đoạn 2011 – 2015 xuống còn 26,98% giai đoạn 2016 – 2020 và tiếp tục giảm xuống còn 16,34% năm 2022. Đồng thời, định hướng “Đầu tư công kích hoạt huy động các nguồn lực đầu tư ngoài nhà nước, đẩy mạnh hợp tác công tư trong phát triển hạ tầng chiến lược” đã bước đầu đạt được những kết quả tích cực.
Trước khi Luật Đầu tư theo phương thức đối tác công tư (Luật số 64/2020/QH14) có hiệu lực, tính từ năm 2009 đến năm 2019, cả nước có 336 dự án đối tác công tư (PPP), nếu loại trừ 188 dự án theo hình thức hợp đồng BT, trung bình mỗi năm có khoảng 7 dự án. Tuy nhiên, chỉ trong 02 năm 2021-2022 đã có 24 dự án PPP, trong đó 10 dự án đã phê duyệt chủ trương đầu tư với tổng mức đầu tư khoảng 160 nghìn tỷ đồng.
Nguồn vốn đầu tư công được tập trung phát triển các ngành sản xuất, dịch vụ, kết cấu hạ tầng kinh tế, xã hội được nâng lên, góp phần đáng kể thúc đẩy tăng trưởng kinh tế, bảo đảm an sinh xã hội, an ninh quốc phòng, bảo vệ độc lập chủ quyền và toàn vẹn lãnh thổ. Việc thúc đẩy giải ngân đầu tư công thực hiện các dự án, đặc biệt là các dự án phát triển hạ tầng, có tác động lan tỏa tích cực đến sự phát triển của các ngành, các doanh nghiệp.
Những nhóm ngành hưởng lợi từ đầu tư công có thể kể tới là bất động sản, vật liệu xây dựng, xây dựng, thi công công trình, logistics và cảng biển sau khi hạ tầng hoàn thiện. Nhóm ngân hàng cũng hưởng lợi gián tiếp khi được tăng cường cấp tín dụng để giải ngân trong lĩnh vực này.
Bên cạnh các kết quả đạt được, việc thực hiện đầu tư công giai đoạn vừa qua vẫn còn những tồn tại, hạn chế làm ảnh hưởng đến tác động lan tỏa của đầu tư công trong nền kinh tế như: Công tác lập kế hoạch đầu tư vốn NSNN chưa sát với khả năng thực hiện dẫn đến không phân bổ được hết kế hoạch vốn được giao; thực hiện các thủ tục gia hạn Hiệp định, kéo dài thời gian bố trí vốn đối với dự án sử dụng vốn ODA và vay ưu đãi của các nhà tài trợ nước ngoài…
Doanh nghiệp nhà nước, một trong những cấu phần của kinh tế nhà nước, đang nắm giữ nguồn lực lớn về vốn, tài sản, công nghệ, nhân lực chất lượng cao, đóng góp đáng kể vào ngân sách nhà nước.
Các doanh nghiệp 100% vốn nhà nước đang nắm giữ khoảng 7% tổng tài sản và 10% vốn chủ sở hữu của toàn bộ doanh nghiệp trên thị trường, chiếm khoảng 25,78% tổng vốn sản xuất, kinh doanh và 23,4% giá trị tài sản cố định và đầu tư tài chính dài hạn của các doanh nghiệp. Các DNNN đóng góp khoảng 28% thu NSNN; thu hút khoảng 0,7 triệu lao động, chiếm khoảng 7,3% lao động của toàn bộ khu vực doanh nghiệp.
Hình 2. Tỷ lệ vốn đầu tư KTNN trong tổng vốn của nền kinh tế (%)
Nguồn: Tổng cục thống kê
Trong tổng vốn đầu tư toàn xã hội, vốn đầu tư của KTNN có xu hướng giảm, ước tính tỷ trọng trung bình vốn đầu tư của KTNN giai đoạn 2011 – 2021 là khoảng 30%.
Hình 3. Vốn đầu tư toàn xã hội theo thành phần kinh tế 2011-2021
Nguồn: Tổng cục thống kê
Đầu tư công được coi là “bệ đỡ” cho sự tăng trưởng kinh tế Việt Nam, dù tỷ trọng đầu tư toàn xã hội của KTNN không chiếm tỷ trọng lớn nhất, tuy nhiên các lĩnh vực mà KTNN đầu tư vẫn mang các tính chất tạo ra môi trường, kết nối và tạo đà cho sự phát triển, đặc biệt là trong lĩnh vực đầu tư cơ sở hạ tầng. Năm 2024, cả nước dành 657.000 tỷ đồng cho đầu tư công, chủ yếu là đầu tư hạ tầng giao thông và phấn đấu đạt tỉ lệ giải ngân ít nhất 95%.
Cùng với hiệu quả thúc đẩy động lực tăng trưởng, việc đầu tư công, với các dự án giao thông được đưa vào khai thác sẽ góp phần giảm chi phí logistics cho doanh nghiệp, giảm giá thành đầu vào, tăng sức cạnh tranh của sản phẩm, doanh nghiệp và nền kinh tế; tạo không gian phát triển mới vì đường đi đến đâu, mở ra không gian phát triển mới đến đó, nhất là phát triển công nghiệp, các khu đô thị, dịch vụ…
Tính đến thời điểm tháng 10/2024, cả nước có 34 dự án lớn, 86 dự án thành phần quan trọng quốc gia, trọng điểm ngành giao thông vận tải tại 46 tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương.
Trong đó có 5 dự án đường sắt, 2 dự án cảng hàng không, còn lại là các dự án đường bộ, chủ yếu là đường bộ cao tốc và các đường vành đai vùng Thủ đô Hà Nội, đường vành đai TPHCM. Dự án cao tốc Bắc- Nam phía đông đã hoàn thành 9/11 dự án thành phần giai đoạn 2017-2020 và dự án Mỹ Thuận-Cần Thơ theo đúng kế hoạch, nâng tổng số đường cao tốc lên 1.892 km, trong đó riêng năm 2023 là 475 km.
Đồng thời, trong bối cảnh các ngành/lĩnh vực công nghệ cao theo các xu hướng thế giới như các ngành công nghệ số, công nghệ bán dẫn được cho là các ngành lĩnh vực đang được cả thế giới săn đuổi. Trước bối cảnh đó, vai trò của DNNN trong việc mở đường, dẫn dắt trong nền kinh tế, bảo đảm DNNN là lực lượng tiên phong dẫn đầu trong lĩnh vực đổi mới sáng tạo, chuyển đổi số và phục hồi nền kinh tế đã tiếp tục được phát huy.
Thủ tướng chính phủ ban hành Chỉ thị số 07/CT-TTg về đổi mới quản trị, nâng cao hiệu quả sản xuất kinh doanh và thúc đẩy mạnh mẽ đầu tư phát triển của các Tập đoàn, Tổng Công ty, doanh nghiệp nhà nước (gọi chung là DNNN) trong đó yêu cầu các DNNN như Tập đoàn Công nghiệp – Viễn thông quân đội (Viettel), VNPT, Mobifone, Tổng Công ty công nghệ – viễn thông toàn cầu (GTEL)… tiếp tục thúc đẩy các dự án đầu tư phát triển và phổ cập hạ tầng viễn thông truyền thống sang hạ tầng số.
Đồng thời các tập đoàn này phát triển hạ tầng trung tâm dữ liệu và điện toán đám mây, hạ tầng công nghệ số và nền tảng số, ứng dụng số tạo động lực phát triển kinh tế số; đồng thời đóng vai trò dẫn dắt, đi đầu trong việc nghiên cứu công nghệ mới nổi (chip bán dẫn…).
Ngoài ra, các lĩnh vực kinh tế mới nhằm hướng tới mục tiêu tăng trưởng xanh cũng đã được vốn đầu tư công hướng tới. Chuyển đổi xanh hay kinh tế tuần hoàn là các lĩnh vực mới, yêu cầu có sự tái đầu tư để chuyển đổi và yêu cầu nguồn vốn lớn, do đó khu vực tư nhân vốn hoạt động dựa trên lợi nhuận cần có sự tham gia của vốn đầu tư công, khu vực kinh tế nhà nước tham gia với mục tiêu mở đường, dẫn dắt, hình thành cơ chế nhằm hướng tới đạt được các mục tiêu về phát triển bền vững, đảm bảo tăng trưởng kinh tế đồng thời giảm thiểu các nguy cơ tác động đến môi trường.
Ngày 31 tháng 10 năm 2017, Thủ tướng Chính phủ đã phê duyệt Chương trình mục tiêu ứng phó BĐKH và tăng trưởng xanh giai đoạn 2016-2020 tại Quyết định số 1670/QĐ-TTg có gắn kết các mục BĐKH với nguồn vốn đầu tư phát triển và nguồn vốn sự nghiệp bảo vệ môi trường.
Nội dung chi từ ngân sách nhà nước (NSNN) cho bảo vệ môi trường (BVMT), ứng phó BĐKH và TTX và phát triển bền vững bao gồm: (i) chi đầu tư phát triển đối với nội dung đầu tư xây dựng các công trình kết cấu hạ tầng kinh tế – xã hội, đầu tư và hỗ trợ cho các doanh nghiệp, các tổ chức và chi thực hiện chương trình mục tiêu quốc gia ứng phó BĐKH, TTX (chi đầu tư); và (ii) chi thường xuyên bao gồm chi hoạt động của cơ quan, bộ máy hoạt động về BVMT, BĐKH và phát triển bền vững ở trung ương và địa phương và chi thực hiện chương trình mục tiêu quốc gia ứng phó với BĐKH và TTX (chi thường xuyên).
Chi đầu tư cho BĐKH và TTX ở Việt Nam từ năm 2013 – 2021 của 11 bộ ngành được rà soát có Bộ Giao thông vận tải, Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn, Bộ Tài nguyên và Môi trường, Bộ Công thương là bốn bộ có chi đầu tư cho hoạt động BĐKH nhiều hơn cả. Trung bình mỗi năm Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn chi bình quân lần lượt là 4040,3 tỷ đồng, Bộ Tài nguyên và Môi trường 3337,8 tỷ đồng mỗi năm, Bộ Giao thông vận tải khoảng 2889 tỷ và Bộ Công thương khoảng 1336 tỷ cho các hoạt động giảm nhẹ.
Chi thường xuyên cho BĐKH và TTX thể hiện rõ trong mục chi NSNN cho sự nghiệp bảo vệ môi trường (BVMT). Trong giai đoạn 2011 – 2021, chi BVMT đã tăng dần qua các năm và tăng ở cả cấp Trung Ương và cấp địa phương. Trong đó, nhiệm vụ chi ngân sách cho BVMT tập trung nhiều ở cấp địa phương nên chi NSNN cho BVMT cấp địa phương chiếm tỷ trọng cao (trung bình giai đoạn 2011- 2021 chiếm 85,5% tổng chi NSNN cho sự nghiệp môi trường.
Tốc độ chi NSNN cho sự nghiệp môi trường giai đoạn 2011 – 2021 đạt 10,2%, cao hơn so với tốc độ tăng chi chung của NSNN cùng giai đoạn (đạt 7,2%). Từ năm 2013 đến năm 2021 tổng chi ngân sách cho sự nghiệp môi trường đạt gần 129,8 ngàn tỷ đồng trong đó khoảng 11,5% là nguồn ngân sách chi sự nghiệp môi trường trung ương; hơn 88,5% từ nguồn ngân sách chi sự nghiệp môi trường địa phương.
Tính chung lại, chi thường xuyên ngân sách nhà nước cho sự nghiệp bảo vệ môi trường giai đoạn 2011-2021 luôn đảm bảo đạt tỷ lệ khoảng 1% tổng chi ngân sách nhà nước và tăng dần hàng năm.
Tổng số vốn đã phê duyệt cho 21 chương trình Mục tiêu Quốc gia về tăng trưởng xanh là khoảng 1,14 triệu tỷ đồng, (tương đương 51 tỷ USD) cho giai đoạn 2016 – 2021 trên phạm
vi cả nước. Trong tổng số 21 Chương trình mục tiêu có nhiều chương trình liên quan trực tiếp và gián tiếp tới BĐKH và tăng trưởng xanh, đặc biệt có chương trình mục tiêu riêng cho “Ứng phó với BĐKH và tăng trưởng xanh” với tổng vốn thực hiện Chương trình là 15.866 tỷ đồng, trong đó vốn đầu tư phát triển từ ngân sách trung ương: 470 tỷ đồng, vốn sự nghiệp từ ngân sách trung ương: 396 tỷ đồng và vốn ODA: 15.000 tỷ đồng.
Mục tiêu tổng quát của chương trình nhằm thực hiện đồng thời Chiến lược quốc gia về BĐKH và Chiến lược quốc gia về tăng trưởng xanh, thực hiện cam kết của Việt Nam cùng cộng đồng quốc tế bảo vệ khí hậu trái đất, tạo đà tiếp tục thu hút hỗ trợ vốn đầu tư từ cộng đồng quốc tế. Tính chung lại, NSNN dành cho BĐKH và TTX ở Việt Nam giai đoạn 2015-2021 là khoảng 166,2 ngàn tỷ đồng mỗi năm, tương đương với 10,9 % tổng chi NSNN và 3 % GDP năm 2018.
Trong đó, chi cho các hoạt động chống chịu khoảng 55 ngàn tỷ đồng và chi cho thích ứng là 111,2 ngàn tỷ đồng. Theo (UNDP, 2020), mức chi cho ứng phó với BĐKH ở Việt Nam cao hơn một số nước trong khu vực như Thái Lan (0,53% GDP), Cam-pu-chia (1,64% GDP), Vanuatu (2,74% GDP).
Kết luận và khuyến nghị
Trong nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, KTNN là một công cụ quan trọng để Nhà nước điều tiết nền kinh tế, đảm bảo ổn định kinh tế – chính trị – xã hội, phát triển kết cấu hạ tầng kinh tế – xã hội và khắc phục các khuyết tật của cơ chế thị trường. Vai trò quan trọng của KTNN trong thực hiện đầu tư công đã được thể hiện rõ nét trên các mặt:
- Hạ tầng giao thông ngày càng hoàn thiện. Một số công trình giao thông quan trọng, quy mô lớn được đầu tư, nâng cấp như các tuyến đường cao tốc, cảng hàng không, cảng biển… làm tăng khả năng kết nối giữa các vùng miền trong cả nước và giao thương quốc tế. Một số công trình lớn hiện đại, có tính chất đồng bộ, kết nối đã được tập trung đầu tư xây dựng, nâng cấp, hoàn thành, đưa vào khai thác(1);
- Hạ tầng năng lượng đã được đầu tư tăng thêm năng lực, cơ bản đáp ứng được yêu cầu phát triển và bảo đảm an ninh năng lượng quốc gia(2);
- Hạ tầng thủy lợi được tập trung đầu tư xây dựng và nâng cấp theo hướng đa mục tiêu, nhiều dự án trọng điểm, quy mô lớn được đầu tư nâng cấp, sửa chữa và hoàn thành góp phần quan trọng thúc đẩy phát triển nông nghiệp, nông thôn và tăng năng lực tưới, tạo nguồn cấp nước và tiêu thủy, ngăn mặn…;
- Hạ tầng đô thị được quan tâm đầu tư, nhất là ở các thành phố lớn. Nhiều công trình như các tuyến chính ra vào thành phố, các trục giao thông hướng tâm, các tuyến tránh đô thị, các đường vành đai đô thị và các cầu lớn được đầu tư xây dựng, đặc biệt là các tuyến vành đai, đường sắt đô thị tại Hà Nội và thành phố Hồ Chí Minh…;
- Hạ tầng thông tin và truyền thông phát triển mạnh, khá hiện đại, rộng khắp, kết nối với quốc tế và từng bước hình thành siêu xa lộ thông Các hệ thống thông tin, cơ sở dữ liệu lớn tạo nền tảng phát triển ứng dụng công nghệ thông tin, xây dựng Chính phủ điện tử ngày càng được hoàn thiện mang lại hiệu quả bước đầu trong hoạt động của cơ quan nhà nước;
- Hạ tầng giáo dục và đào tạo, khoa học và công nghệ, y tế, văn hóa, thể thao, du lịch được quan tâm đầu tư. Nhiều dự án đầu tư xây dựng cơ sở vật chất ngành giáo dục được thực hiện, hạ tầng khoa học và công nghệ được tập trung đầu tư cho các nhiệm vụ khoa học trọng điểm quốc .. Các công trình hạ tầng y tế đang thi công được đẩy nhanh tiến độ và hoàn thành, sớm đưa vào hoạt động;
- Vốn đầu tư nhà nước góp phần đặc biệt quan trọng nâng cao chất lượng quản lý tài nguyên, bảo vệ và cải thiện chất lượng môi trương, chủ động ứng phó với biến đổi khí hậu, phòng chống thiên tai: Hiệu quả việc quản lý, sử dụng đất đai và một số tài nguyên khác từng bước được nâng lên. Bước đầu đã thực hiện một số giải pháp bảo vệ môi trường, nhất là trong hoạt động đầu tư, phát triển doanh nghiệp và thu hút đầu tư nước ngoài. Năng lực dự báo thiên tai được nâng lên, đánh giá tác động môi trường được quan tâm hơn, ứng phó với biến đổi khí hậu được tăng cường. Bảo tồn thiên nhiên, đa dạng sinh học, bảo vệ và phát triển rừng được quan tâm hơn. Các biện pháp bảo vệ môi trường, phòng ngừa và xử lý cơ sở gây ô nhiễm nghiêm trọng được tích cực thực hiện. Tỉ lệ cơ sở gây ô nhiễm môi trường nghiêm trọng được xử lý đang cao.
Trong thời gian tới, để tiếp tục phát huy vai trò quan trọng của KTNN trong thực hiện đầu tư công, cần chú trọng vào những định hướng, giải pháp sau đây:
Thứ nhất, trong bối cảnh nền kinh tế thế giới tiếp tục đối mặt với rủi ro, thách thức sẽ ảnh hưởng đến hoạt động sản xuất kinh doanh, sản xuất công nghiệp, xuất khẩu, thu hút đầu tư… của nước ta, tạo sức ép rất lớn trong điều hành phát triển kinh tế – xã hội nói chung và kế hoạch đầu tư công nói riêng trong các năm tiếp theo.
Do đó, giai đoạn tới nguồn vốn đầu tư công tiếp tục được xác định là “vốn mồi” kích thích nhiều nguồn vốn khác tham gia vào quá trình phát triển kinh tế, góp phần tạo ra tác động lan tỏa cho tăng trưởng kinh tế xã hội bền vững. Vì vậy, cần phải có những giải pháp mang tính đột phá, tăng cường phân quyền cho địa phương trong việc đầu tư và giải ngân vốn đầu tư công đồng thời phát huy tính tự lực, tự cường; siết chặt kỷ luật, kỷ cương và có kế hoạch, biện pháp, kiểm tra đôn đốc việc tổ chức thực hiện.
Thứ hai, phát huy vai trò dẫn dắt, lan tỏa đặc biệt trong các ngành/lĩnh vực mới theo xu thế toàn cầu và thế giới nhằm đổi mới mô hình tăng trưởng như kinh tế số, kinh tế xanh, ngành công nghiệp bán dẫn, trong đó vốn đầu tư công có vai trò là vốn mồi để huy động đầu tư của khu vực ngoài nhà nước, tạo không gian, động lực mới thúc đẩy phát triển kinh tế – xã hội bền vững.
Phát huy vai trò của đầu tư công theo phương châm “đầu tư công dẫn dắt đầu tư” để phục vụ các mục tiêu phát triển kinh tế – xã hội, đặc biệt là đối với đầu tư phát triển kết cấu hạ tầng theo phương thức PPP, giảm tỷ trọng vốn đầu tư công trong cơ cấu vốn đầu tư toàn xã hội gắn với nâng cao hiệu quả đầu tư công.
Thứ ba, thực hiện có hiệu quả Kế hoạch đầu tư công trung hạn giai đoạn 2021 – 2025, trong đó tiếp tục rà soát, kiên quyết loại bỏ những dự án kém hiệu quả, dự án chưa thật sự cần thiết, triển khai chậm, ưu tiên vốn cho các dự án trọng điểm, cấp bách, tạo động lực cho phát triển nhanh và bền vững. Nâng cao chất lượng công tác chuẩn bị và tổ chức thực hiện dự án, hạn chế phải điều chỉnh trong quá trình triển khai, bảo đảm hiệu quả; kiểm soát chặt chẽ phạm vi, quy mô, tổng mức đầu tư, thời gian bố trí vốn của từng dự án đầu tư theo đúng mục tiêu, lĩnh vực và quy định của pháp luật.