Quan điểm của Đảng về vị trí, vai trò của Doanh nghiệp Nhà nước
* Kinh tế nhà nước giữ vai trò chủ đạo. Kinh tế nhà nước bao gồm: Doanh nghiệp nhà nước (DNNN); Các đơn vị kinh tế của Nhà nước; Hệ thống tài sản của quốc gia thuộc sở hữu toàn dân do Nhà nước đại diện chủ sở hữu (như đất đai, tài nguyên trên đất và trong lòng đất; biển, đảo và tài nguyên trên và trong lòng biển, đảo; vùng trời và tài nguyên trên vùng trời; các tài sản, của cải, tư liệu sản xuất, vốn, ngân sách nhà nước, các quỹ quốc gia…).
* Khái niệm về doanh nghiệp nhà nước: DNNN là doanh nghiệp do Nhà nước nắm giữ 100% vốn điều lệ hoặc cổ phần, vốn góp chi phối; được tổ chức và hoạt động dưới hình thức công ty cổ phần hoặc công ty trách nhiệm hữu hạn.
* Vị trí, trò của doanh nghiệp nhà nước
– DNNN giữ vị trí then chốt, là một lực lượng vật chất quan trọng của kinh tế nhà nước, là công cụ hỗ trợ để Nhà nước điều tiết nền kinh tế,ổn định kinh tế vĩ mô, thúc đẩy phát triển kinh tế và thực hiện tiến bộ, công bằng xã hội.
– DNNN tập trung vào những lĩnh vực then chốt, thiết yếu; những địa bàn quan trọng và quốc phòng, an ninh; những lĩnh vực mà doanh nghiệp thuộc các thành phần kinh tế khác
không đầu tư.
– DNNN sẽ giảm dần đầu tư vào các ngành, lĩnh vực mà các doanh nghiệp thành phần kinh tế khác đầu tư có hiệu quả hơn.
– DNNN hoạt động theo cơ chế thị trường,lấy hiệu quả kinh tế làm tiêu chí đánh giá chủ yếu, tự chủ, tự chịu trách nhiệm, cạnh tranh bình đẳng với doanh nghiệp thuộc các thành phần kinh tế khác theo quy định của pháp luật.
– DNNN đẩy mạnh nghiên cứu, ứng dụng KH và CN, nhất là công nghệ số, đổi mới sáng tạo… nhằm đạt trình độ công nghệ, kỹ thuật sản xuất hiện đại tương đương với các nước trong khu vực.
– DNNN quản trị hiện đại theo chuẩn mực quốc tế.
– DNNN nâng cao hiệu quả hoạt động, hiệu quả sử dụng vốn, bảo toàn, phát triển vốn nhà nước tại doanh nghiệp.
– Tiếp tục hoàn thiện thể chế, thúc đẩy phát triển, nâng cao hiệu quả hoạt động của DNNN.
– Tách bạch nhiệm vụ của DNNN sản xuất, kinh doanh hàng hóa, dịch vụ thông thường và nhiệm vụ của DNNN sản xuất, cung cấp hàng hóa, dịch vụ công ích.
– Nâng cao chất lượng, hiệu quả, năng lực cạnh tranh của DNNN để làm tốt vai trò dẫn dắt phát triển các doanh nghiệp thuộc thành phần kinh tế khác, bảo đảm doanh nghiệp Việt Nam thật sự trở thành lực lượng nòng cốt trong phát triển kinh tế – xã hội, thực hiện công nghiệp hóa, hiện đại hóa, xây dựng nền kinh tế độc lập, tự chủ trong bối cảnh toàn cầu hóa và hội nhập quốc tế.
– Đẩy mạnh cơ cấu lại, đổi mới DNNN theo cơ chế thị trường với phương thức thực hiện
và lộ trình hợp lý.
– Đổi mới cách thức thực hiện cổ phần hóa, thoái vốn nhà nước tại DNNN, nhất là các biện pháp liên quan đến xác định giá trị quyền sử dụng đất, tài sản cố định, thương hiệu và giá trị truyền thống của doanh nghiệp cổ phần hóa.
– Cổ phần hóa, thoái vốn nhà nước tại những doanh nghiệp mà Nhà nước không cần nắm hoặc không cần giữ cổ phần, vốn góp chi phối, kể cả những doanh nghiệp đang kinh doanh có hiệu quả; đồng thời xử lý triệt để, bao gồm cả việc cho phá sản các DNNN yếu kém.
– Tiền thu được từ cổ phần hóa, thoái vốn nhà nước tập trung đầu tư các công trình kết
cấu hạ tầng trọng điểm, quan trọng quốc gia, địa phương, bổ sung vốn điều lệ cho DNNN
then chốt quốc gia.
– Củng cố, phát triển một số tập đoàn kinh tế nhà nước có quy mô lớn, thực hiện quyền tự chủ, nâng cao hiệu quả hoạt động, có năng lực cạnh tranh khu vực và quốc tế trong một số ngành, lĩnh vực then chốt của nền kinh tế.
– Hoàn tất việc sắp xếp lại khối DNNN.
– Bảo đảm công khai, minh bạch và trách nhiệm giải trình của DNNN.
– Tăng cường đào tạo, bồi dưỡng, hình thành đội ngũ quản lý DNNN chuyên nghiệp, có
trình độ cao, phẩm chất đạo đức tốt.
– Nâng cao hiệu lực, hiệu quả quản lý, giám sát, kiểm tra, kiểm soát đối với hoạt động của DNNN; không để xảy ra thất thoát, lãng phí vốn, tài sản nhà nước.
– Tách bạch, phân định rõ chức năng chủ sở hữu tài sản, vốn của Nhà nước với chức năng quản lý nhà nước đối với mọi loại hình doanh nghiệp, chức năng quản trị kinh doanh của DNNN.
– Tiếp tục đổi mới phương thức và nâng cao năng lực lãnh đạo của các tổ chức đảng; phát huy vai trò của Nhân dân, Mặt trận Tổ quốc Việt Nam và các tổ chức chính trị – xã hội trong giám sát đối với việc cơ cấu lại, đổi mới và nâng cao hiệu quả DNNN.
– Bảo đảm quyền và lợi ích chính đáng, hợp pháp của người lao động, giữ vững ổn định chính trị – xã hội.
Sự cần thiết đổi mới, nâng cao hiệu quả DNNN để góp phần bảo đảm tính chủ đạo của kinh tế Nhà nước trong bối cảnh hiện nay
Trong bối cảnh hiện nay cần thiết phải đổi mới mạnh mẽ, nâng cao hiệu quả DNNN để góp phần bảo đảm tính chủ đạo của kinh tế nhà nước.Một là, vai trò ngày càng quan trọng của doanh nghiệp nhà nước trong nền kinh tế.
Thực tiễn đã chứng minh, DNNN luôn đóng vai trò đặc biệt quan trọng trong mọi nền kinh tế trên thế giới, bằng việc cung cấp các hàng hóa công cộng và dịch vụ thiết yếu như điện, nước, xăng dầu, vận tải công cộng…
Ước tính tổng giá trị tài sản của DNNN trên thế giới là 45 nghìn tỷ USD (giá trị tương đương 50% GDP toàn cầu), ở một số quốc gia tổng giá trị tài sản DNNN tương đương trên 10% GDP, như: Hy Lạp 38%, Na Uy trên 18%, Hàn Quốc 13%, A-rập Xê-út 12%, Ấn Độ 10%, Italia 10%…; ở các nền kinh tế mới nổi và đang phát triển: DNNN đảm nhận trên 55% tổng đầu tưkết cấu hạ tầng.
Trong danh mục 2.000 công ty lớn nhất thế giới, số lượng DNNN chiếm 20%, tăng gấp đôi trong hai thập kỷ qua. Nội dung các hiệp định và các cam kết thương mại quốc tế gần đây cho thấy, các bên đối tác chỉ đề cập đến yêu cầu áp đặt cơ chế thị trường đối với DNNN, đảm bảo môi trường, thể chế kinh doanh cạnh tranh bình đẳng giữa DNNN và doanh nghiệp khác. Như vậy, DNNN không chỉ cung cấp sản phẩm nền tảng, thiết yếu, mà còn là động lực trực tiếp của tăng trưởng kinh tế.
Hai là, cuộc Cách mạng công nghiệp lần thứ tư, chuyển đổi số diễn ra mạnh mẽ, tác động sâu rộng đến mọi mặt của đời sống kinh tế – xã hội. Trong quá trình đổi mới, cơ cấu lại, nâng cao hiệu quả DNNN, cần triệt để tận dụng những thành tựu của Cách mạng công nghiệp lần thứ tư và chuyển đổi số vào việc đổi mới tổ chức, quản lý, quản trị và hoạt động sản xuất – kinh doanh của DNNN, chuyển DNNN thành doanh nghiệp số.
Xây dựng, quản lý và vận hành hệ thống dữ liệu quốc gia thống nhất về DNNN theo hướng tập trung một đầu mối, hiện đại hóa công cụ quản lý, giám sát DNNN, đầu tư xây dựng và vận hành trung tâm thông tin quản lý, giám sát dòng vốn nhà nước đầu tư tại doanh nghiệp, kết nối thông
tin với cơ quan đại diện chủ sở hữu và từng doanh nghiệp trực thuộc.
Ba là, phát triển bền vững đã trở thành đường lối phát triển chiến lược của đất nước, do vậy DNNN cũng phải phát triển bền vững. DNNN đứng trước những cơ hội và thách thức trong việc điều chỉnh, lựa chọn, triển khai áp dụng các mô hình sản xuất – kinh doanh bền vững, các mô hình sản xuất – kinh doanh mới…
Đồng thời, DNNN là lực lượng vật chất quan trọng của Nhà nước để thực hiện chính sách phát triển bền vững nền kinh tế. Điều đó càng đòi hỏi DNNN càng phải phát triển bền vũng, nhất là vai trò đặc biệt quan trọng của các tập đoàn kinh tế, tổng công ty nhà nước trong những ngành then chốt như năng lượng, công nghệ số, công nghệ thông tin truyền thông, tài chính, ngân hàng và các ngành công nghiệp nền tảng..
Bốn là, nhiều chủ trương, định hướng mới của Đảng đặt ra yêu cầu phải đổi mới mạnh mẽ, nâng cao hiệu quản DNNN để góp phần bảo đảm vai trò chủ đạo của kinh tế nhà nước. Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII của Đảng đã nêu: “Tiếp tục thực hiện sắp xếp lại DNNN, tập trung giữ vững những lĩnh vực then chốt, thiết yếu; những địa bàn quan trọng về quốc phòng, an ninh; những lĩnh vực mà doanh nghiệp thuộc các thành phần kinh tế khác không đầu tư.
Củng cố, phát triển một số tập đoàn kinh tế nhà nước có quy mô lớn, hoạt động hiệu quả, có khả năng cạnh tranh khu vực và quốc tế trong một số ngành, lĩnh vực then chốt của nền kinh tế. Bảo đảm công khai, minh bạch trong cơ cấu lại DNNN, nhất là trong cổ phần hóa và thoái vốn nhà nước tại doanh nghiệp.
Đến năm 2025, hoàn tất việc sắp xếp lại khối DNNN; xử lý cơ bản xong những yếu kém, thất thoát của các tập đoàn, tổng công ty nhà nước. Tiền thu từ cổ phần hoá, thoái vốn nhà nước được quản lý tập trung và chỉ sử dụng cho đầu tư các công trình kết cấu hạ tầng trọng điểm, quan trọng quốc gia, địa phương và bổ sung vốn điều lệ cho một số DNNN then chốt quốc gia thuộc 4 lĩnh vực Nhà nước đầu tư và nắm giữ vốn theo quy định. Nâng cao hiệu quả của DNNN sau cổ phần hoá. Hình thành đội ngũ quản lý DNNN chuyên nghiệp, có trình độ cao”.
Mục tiêu Đại hội XIII của Đảng đặt ra đến năm 2030, nước ta là nước đang phát triển, có công nghiệp hiện đại, thu nhập trung bình cao. Muốn đạt mục tiêu đó, DNNN phải đổi mới mạnh mẽ, nâng cao hiệu quả thực sự trong sản xuất – kinh doanh để góp phần làm cho kinh tế nhà nước thực sự đóng vai trò chủ đạo dẫn dắt nền kinh tế có quy mô và thu nhập bình quân đầu người đạt chuẩn thu nhập trung bình cao, công nghiệp trở thành nền công nghiệp hiện đại theo tiêu chí quốc tế.
Năm là, bối cảnh mới đặt ra yêu cầu mới đối với DNNN phải tiếp tục đổi mới, nâng cao hiệu quả hoạt động góp phần bảo đảm tính chủ đạo của kinh tế nhà nước.Bối cảnh, tình hình mới đang đặt ra nhiều vấn đề mới cho doanh nghiệp nói chung và DNNN nói riêng, như vấn đề chuyển đổi số; phát triển và ứng dụng khoa học – công nghệ, đổi mới sáng tạo; chuyển dịch đầu tư hướng tới đạt được mục tiêu phát thải ròng bằng 0 vào năm 2050, phát triển bền vững, phát triển xanh, kinh tế tuần hoàn… (đòi hỏi tập trung vào phát triển những lĩnh vực mới, đòi hỏi lượng vốn đầu tư cao, cần vai trò dẫn dắt của DNNN, như: hydrogen xanh, chất bán dẫn, điện gió ngoài khơi…).
Sáu là,vấn đề đặt ra trong thực tiễn: thời gian qua việc sắp xếp lại, trọng tâm là cổ phần hóa, thoái vốn đã được triển khai mạnh mẽ, do vậy đã thu hẹp số lượng DNNN: các DNNNquy mô nhỏ, hoạt động trong nhiều ngành, lĩnh vực kinh doanh thuần túy đã giảm dần, số DNNN quy mô lớn, có vai trò quan trọng trong phát triển kinh tế-xã hội không còn nhiều.
Đến nay, cả nước còn khoảng 673 DNNN, trong đó có 9 tập đoàn kinh tế (TĐKT), 70 tổng công ty (TCT) nhà nước (chỉ chiếm 0, 014% số doanh nghiệp đang hoạt động trong nền kinh tế) nhưng có quy mô lớn, chủ yếu hoạt động trong các ngành quan trọng, có tính chất lan tỏa, dẫn dắt đối với nền kinh tế (như: năng lượng, tài chính, ngân hàng, viễn thông, kết cấu hạ tầng nông nghiệpvà công nghiệp…) và hoạt động có hiệu quả. Do vậy, trong trường hợp thoái vốn nhà nước tại các DNNN hoạt động có hiệu quả thì rất khó để thực hiện vai trò là lực lượng vật chất quan trọng, mang tính chất mở đường, dẫn dắt nền kinh tế.
Vì vậy, cần thay đổi nhận thức về cổ phần hóa, thoái vốn tại các DNNN quy mô lớn là lực lượng vật chất quan trọng của kinh tế nhà nước, hoạt động trong các ngành, lĩnh vực quan trọng có tính chất lan tỏa, dẫn dắt đối với nền kinh tế là nhiệm vụ thường xuyên, liên tục và nên giao doanh nghiệp chủ động thực hiện theo cơ chế thị trường với lộ trình hợp lý bám sát mục tiêu đến năm 2030 “Hầu hết các DNNN có cơ cấu sở hữu hỗn hợp, chủ yếu là doanh nghiệp cổ phần”.
Bảy là, xác định rõ ngành, lĩnh vực then chốt, quan trọng cần có sự hiện diện của DNNN phù hợp với định hướng phát triển bền vững của đất nước (như năng lượng tái tạo, công nghiệp công nghệ cao, kết cấu hạ tầng quan trọng của quốc gia, đổi mới sáng tạo…).
Đồng thời, cần có định hướng lấy các DNNN quy mô lớn làm nền tảng để thực hiện vai trò mở đường, dẫn dắt tham gia đầu tư phát triển trong một số ngành, lĩnh vực quan trọng của nền kinh tế (đặc biệt trong hai lĩnh vực mới là hydrogen xanh và công nghiệp bán dẫn).
Hình thành các chuỗi liên kết, chuỗi giá trị, thúc đẩy đổi mới sáng tạo với định hướng sử dụng hiệu quả nguồn lực chưa khai thác hết của DNNN, thu hút thêm nguồn lực từ khu vực tư nhân để xây dựng nền kinh tế độc lập, tự chủ, đi lên từ nội lực.
Sắp xếp, đổi mới nhằm nâng cao hiệu quả hoạt động và khai thác dư địa của khu vực DNNN thể hiện được vị trí, vai trò mở đường, dẫn dắt để cùng với khu vực tư nhân trong nước xây dựng nền kinh tế độc lập, tự chủ hướng tới mục tiêu trở thành quốc gia hùng cường, thịnh vượng vào năm 2045.
Tám là, nhiệm vụ, giải pháp trọng tâm để nâng tầm vị trí, vai trò của DNNN góp phần bảo đảm tính chủ đạo của kinh tế nhà nướclà tiếp tục nâng cao hiệu quả hoạt động của DNNN một cách toàn diện: tài chính, hiệu quả hoạt động sản xuất – kinh doanh, quản trị doanh nghiệp…, chú trọng chuyển dịch hoạt động sản xuất kinh doanh và đầu tư nhằm thực hiện cam kết của Việt Nam tại COP 26. Đẩy mạnh áp dụng quản trị hiện đại theo thông lệ quốc tế; minh bạch hóa hoạt động đầu tư kinh doanh của DNNN.
Trong đó cần đổi mới công tác cán bộ đề tuyển dụng hoặc thuê nguồn nhân lực chất lượng cao, có thể xem xét thí điểm thuê Giám đốc điều hành nước ngoài tại một số TĐKT, TCT và xây dụng cơ chế, chính sách tiền lương, chế độ đãi ngộ phù hợp. Khuyến khích các TĐKT, TCT: áp dụng tiêu chuẩn môi trường – xã hội – quản trị (ESG) và tiêu chuẩn quốc gia về trách nhiệm xã hội trong hoạt động sản xuất – kinh doanh (ISO 26000).
Chín là, đổi mới công tác xây dựng văn bản pháp luật theo hướng chuyển đổi số, chuyển đổi xanh, kinh tế tuần hoàn… trong các quy định về quản lý phần vốn của nhà nước đề khuyến khích DNNN quy mô lớn (những đối tượng tạo phát thải lớn) chuyển đổi đầu tư vào các dự án theo hướng “xanh, hướng tới phát triển bền vững”…, chú trọng đổi mới và nâng cao hiệu quả hoạt động của DNNN trên nền tảng công nghệ hiện đại, năng lực đổi mới sáng tạo, quản trị theo chuẩn mực quốc tế để làm tốt vai trò dẫn dắt, bảo đảm doanh nghiệp Việt Nam thật sự trở thành lực lượng nòng cốt trong phát triển kinh tế – xã hội, thực hiện công nghiệp hóa, hiện đại hóa, xây dựng nền kinh tế độc lập, tự chủ trong bối cảnh toàn
cầu hóa và hội nhập quốc tế.
Mười là, thực hiện tách bạch triệt để nhiệm vụ sản xuất, kinh doanh hàng hóa, dịch vụ thông thường và nhiệm vụ sản xuất, cung cấp hàng hóa, dịch vụ công ích của DNNN; bố trí vốn ngân sách trung ương cho DNNN thực hiện nhiệm vụ chính trị được giao để đảm bảo an sinh xã hội, dịch vụ công ích.
Đẩy nhanh việc xây dựng cơ chế, chính sách đặc thù để DNNN thực hiện các nhiệm vụ đặt hàng của Nhà nước giao trong các lĩnh vực ưu tiên như các ngành công nghiệp nền tảng, công nghiệp mũi nhọn, các dự án đầu tư quy mô lớn, có sức lan tỏa, tạo động lực phát triển kinh tế – xã hội đất nước; giữ lại và sử dụng một phần tiền thu từ cổ phần hóa, thoái vốn để tái đầu tư các dự án đầu tư quan trọng quốc gia.