Doanh nghiệp nhà nước (DNNN) luôn giữ vai trò quan trọng trong sự nghiệp phát triển kinh tế của Việt Nam. Sau hơn 35 năm đổi mới, mặc dù đạt được những kết quả quan trọng, nhưng đóng góp của khối doanh nghiệp nhà nước vào nền kinh tế vẫn chưa tương xứng với tiềm năng.
Khu vực doanh nghiệp nhà nước vẫn còn một số tồn tại, hạn chế trong quá trình hoạt động sản xuất, kinh doanh cũng như trong huy động nguồn lực cho sự phát triển. Đổi mới DNNN đáp ứng yêu cầu trong bối cảnh mới không chỉ giúp cải thiện hiệu quả hoạt động và khả năng cạnh tranh mà còn đảm bảo các DNNN có thể đáp ứng các yêu cầu và thách thức trong bối cảnh kinh tế và xã hội đang thay đổi nhanh chóng.
Bối cảnh mới và sự cần thiết đổi mới DNNN
Doanh nghiệp nhà nước là tổ chức kinh tế do Nhà nước sở hữu toàn bộ vốn điều lệ hoặc có cổ phần, vốn góp chi phối, được tổ chức dưới hình thức công ty nhà nước, công ty cổ phần, công ty trách nhiệm hữu hạn. Ở Việt Nam, từ năm 2021, doanh nghiệp nhà nước bao gồm các doanh nghiệp do Nhà nước nắm giữ trên 50% vốn điều lệ, tổng số cổ phần có quyền biểu quyết theo quy định pháp luật.
DNNN là lực lượng vật chất quan trọng của kinh tế nhà nước, đóng góp lớn vào phát triển kinh tế – xã hội, bảo đảm an ninh quốc phòng, an sinh xã hội, thực hiện các nhiệm vụ chính trị quan trọng do Đảng và Nhà nước giao, thể hiện vai trò nòng cốt trong một số ngành, lĩnh vực và tạo nguồn thu đáng kể cho ngân sách nhà nước, góp phần dẫn dắt, tạo động lực cho khu vực kinh tế ngoài nhà nước phát triển.
Trong giai đoạn dịch bệnh COVID-19, vai trò của khu vực DNNN đã được phát huy, thể hiện rất rõ nét và hoàn thành tốt các nhiệm vụ được giao; vừa duy trì hoạt động sản xuất, kinh doanh, góp phần bảo đảm an sinh xã hội, ổn định kinh tế vĩ mô, kiểm soát lạm phát, bảo đảm các cân đối lớn của nền kinh tế vừa tích cực tham gia phòng, chống dịch bệnh với tinh thần trách nhiệm cao, phản ứng chính sách kịp thời, bám sát thực tiễn để tham mưu, đề xuất với Chính phủ tháo gỡ các ách tắc, vướng mắc cho doanh nghiệp, góp phần giải quyết khó khăn cho đất nước.
Thời gian qua và giai đoạn 2021-2022, triển khai các nghị quyết của Đảng, Quốc hội, với sự chỉ đạo quyết liệt của Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ và nỗ lực của các bộ, cơ quan, doanh nghiệp, công tác đổi mới, nâng cao hiệu quả hoạt động của DNNN đã đạt được một số kết quả tích cực. Bên cạnh những kết quả đạt được, vấn đề đổi mới nâng cao hiệu quả hoạt động của DNNN còn một số bất cập, tồn tại, hạn chế
Đổi mới doanh nghiệp nhà nước là nhiệm vụ thường xuyên nhằm: Cải thiện hiệu quả kinh doanh; Thích ứng với thị trường; Đáp ứng yêu cầu phát triển bền vững;Tăng cường minh bạch và trách nhiệm; Đáp ứng yêu cầu hội nhập quốc tế. Những yếu tố này cho thấy việc đổi mới DNNN không chỉ là cần thiết mà còn là một nhiệm vụ chiến lược để đảm bảo sự phát triển và tồn tại của doanh nghiệp nhà nước trong nền kinh tế hiện đại.
Trong bối cảnh mới hiện nay, có một số vấn đề quan trọng ảnh hưởng đến quá trình đổi mới doanh nghiệp nhà nước cần được xem xét. Đó là : “ Sự chuyển mình nhanh chóng từ nền kinh tế truyền thống sang nền kinh tế số và tự động hóa; Biến động lớn địa chính trị, khủng hoảng kinh tế và biến đổi khí hậu; Chính phủ đang thực hiện các chính sách cải cách mạnh mẽ để thúc đẩy nền kinh tế thị trường định hướng XHCN và quản lý tốt hơn các DNNN; Trách nhiệm giải trình và minh bạch hơn đang trở thành ưu tiên hàng đầu, đặc biệt trong bối cảnh các vấn đề liên quan đến tham nhũng và quản lý kém; DNNN phải đối mặt với cạnh tranh ngày càng gay gắt từ các doanh nghiệp tư nhân và các công ty nước ngoài; Để tồn tại và phát triển DNNN cần đổi mới và sáng tạo; Cộng đồng và xã hội ngày càng đòi hỏi các doanh nghiệp, bao gồm cả DNNN, phải có trách nhiệm xã hội và đóng góp vào các mục tiêu phát triển bền vững.”
Những vấn đề này phản ánh một bối cảnh mới thay đổi nhanh chóng và yêu cầu các DNNN phải thường xuyên đổi mới, điều chỉnh và cải tiến để thích ứng và duy trì sự cạnh tranh trong môi trường kinh tế và chính trị ngày càng phức tạp. Vì vậy, đổi mới doanh nghiệp nhà nước (DNNN) trong bối cảnh mới là một nhu cầu cấp thiết nhằm giúp các doanh nghiệp này thích ứng với môi trường kinh doanh thay đổi nhanh chóng và tăng cường hiệu quả hoạt động.
Những yêu cầu và thách thức đổi mới DNNN trong bối cảnh mới
Trong bối cảnh mới, các doanh nghiệp nhà nước (DNNN) phải đối mặt với nhiều yêu cầu và thách thức trong quá trình đổi mới. Những yêu cầu đổi mới đối với DNNN trong bối cảnh mới, đó là :
Về cải cách quản lý với mục tiêu nâng cao năng lực quản lý và lãnh đạo để tăng cường hiệu quả hoạt động, DNNN cần cải thiện năng suất và hiệu quả để cạnh tranh với khu vực tư nhân và thu hút đầu tư.
Đổi mới công nghệ, áp dụng công nghệ hiện đại và tự động hóa trong sản xuất và quản lý để tăng cường hiệu suất.
Chuyển đổi số, áp dụng chuyển đổi số trong quản lý và hoạt động kinh doanh để nâng cao khả năng thích ứng và cạnh tranh.
Minh bạch và trách nhiệm giải trình, tăng cường tính minh bạch trong hoạt động tài chính và quản lý. Cần có hệ thống báo cáo và kiểm soát tài chính minh bạch để xây dựng lòng tin từ cổ đông và công chúng
Đổi mới mô hình kinh doanh, tìm kiếm các mô hình kinh doanh mới, phù hợp với xu hướng thị trường và nhu cầu khách hàng.
Phát triển bền vững, đảm bảo hoạt động kinh doanh không chỉ mang lại lợi nhuận mà còn có trách nhiệm với môi trường và xã hội.
Những thách thức đổi mới đối với DNNN trong bối cảnh mới, là:
Khó khăn trong quản lý đổi mới do việc thay đổi thói quen làm việc và văn hóa tổ chức có thể gặp nhiều trở ngại từ phía lãnh đạo và nhân viên
Sự phản kháng từ lợi ích cũ, các nhóm lợi ích trong DNNN có thể không đồng tình với những thay đổi, gây khó khăn cho quá trình đổi mới.
Một số DNNN có thể gặp khó khăn trong việc tiếp cận nguồn vốn, đặc biệt là trong bối cảnh kinh tế không ổn định.Thiếu nguồn lực đầu tư, cần có nguồn vốn lớn để thực hiện các chương trình đổi mới, nhiều DNNN gặp khó khăn trong việc huy động vốn.
Cạnh tranh từ khu vực tư nhân, sự phát triển nhanh chóng của khu vực tư nhân khiến DNNN phải nỗ lực nhiều hơn để giữ vững thị phần. DNNN phải đối mặt với sự cạnh tranh gay gắt từ các doanh nghiệp tư nhân, đặc biệt là trong các ngành dịch vụ và công nghệ.
Nhiều DNNN vẫn gặp phải vấn đề về quản lý và điều hành, dẫn đến lãng phí nguồn lực. hoạt động không hiệu quả
Sự thay đổi thường xuyên trong chính sách và quy định có thể gây khó khăn trong việc điều chỉnh chiến lược kinh doanh.
Áp lực từ cổ phần hóa và tái cấu trúc có thể gây ra xáo trộn trong hoạt động và nhân sự
Khó khăn trong việc áp dụng công nghệ mới, nhiều DNNN có thể thiếu kỹ năng và kiến thức cần thiết để áp dụng công nghệ mới vào hoạt động.
Các giải pháp đổi mới doanh nghiệp Nhà nước đáp ứng yêu cầu trong bối cảnh mới
Đổi mới doanh nghiệp Nhà nước là một yêu cầu cấp thiết trong bối cảnh kinh tế hiện nay. Dưới đây là một số giải pháp giúp DNNN hoạt động hiệu quả hơn trong bối cảnh mới
Thứ nhất, tái cơ cấu doanh nghiệp Nhà nước
Tái cơ cấu doanh nghiệp nhà nước (DNNN) là quá trình thay đổi cấu trúc, quản lý, và hoạt động của các doanh nghiệp thuộc sở hữu nhà nước nhằm nâng cao hiệu quả hoạt động, cải thiện năng lực cạnh tranh, và tối ưu hóa nguồn lực. Quá trình này thường bao gồm các hoạt động như cổ phần hóa, sắp xếp lại tổ chức, và cải cách quản lý.
Nhìn lạị việc tái cơ cấu DNNN những năm qua, chủ yếu triển khai bề rộng, mới chỉ quan tâm tới việc giảm số lượng các doanh nghiệp nhà nước, chưa đi sâu vào giải quyết mục tiêu chính của tái cơ cấu
Hầu hết các doanh nghiệp mà Nhà nước nắm giữ 100% vốn chưa có sự thay đổi về chất, chủ yếu thay đổi về tên gọi, hình thức pháp lý như công ty trách nhiệm hữu hạn một thành viên; các tập đoàn, tổng công ty, công ty mẹ – công ty con còn tồn tại nhiều yếu kém về tài chính, nhân lực, quản lý.
Tái cơ cấu DNNN trong bối cảnh mới, cần tập trung vào các nội dung chính sau:
Xác định rõ ràng vai trò của DNNN, rà soát và xác định định hướng của DNNN trong nền kinh tế, đảm bảo DNNN hoạt động hiệu quả, không chồng chéo với khu vực kinh tế tư nhân.
Phân định rõ ngành, nghề mà Nhà nước cần nắm giữ. Phân định rõ những ngành nào Nhà nước cần nắm giữ 100% vốn, ngành nào cần nắm giữ cổ phần chi phối, ngành nào
không cần. Thông qua đó, thu hẹp số lượng ngành, nghề, lĩnh vực kinh doanh cần có doanh nghiệp nhà nước. Tập trung hoạt động của doanh nghiệp nhà nước vào một số ngành, nghề, lĩnh vực đảm bảo lợi ích kinh tế quốc gia, quốc phòng, an ninh, dịch vụ công ích, kết cấu hạ tầng, khoa học công nghệ cao.
Sắp xếp lại tổ chức, rà soát cơ cấu tổ chức, xác định rõ chức năng, nhiệm vụ của từng đơn vị. Điều này có thể bao gồm việc sáp nhập, chia tách hoặc chuyển đổi các doanh nghiệp.
Tối ưu hóa nguồn lực, tập trung vào các lĩnh vực, ngành nghề có lợi thế cạnh tranh, giảm thiểu các hoạt động không hiệu quả.
Chính phủ cần sớm ban hành đầy đủ các cơ chế, đặc biệt là các cơ chế xác định chức năng, nhiệm vụ và quyền hạn của cơ quan quản lý đại diện vốn nhà nước tại doanh nghiệp nhà nước, đơn vị đại diện có chức năng đến đâu, có quyền như thế nào cần được xác định và thể chế hóa.
Tăng cường tính minh bạch và trách nhiệm, Cải thiện quản trị doanh nghiệp thông qua việc áp dụng các chuẩn mực quản lý hiện đại, công khai thông tin và tăng cường sự giám sát của xã hội. Đổi mới phương thức hoạt động, chuyển từ mô hình quản lý hành chính sang mô hình quản lý kinh doanh theo nguyên tắc thị trường, khuyến khích sáng tạo và linh hoạt trong việc đáp ứng thị trường.
Đẩy nhanh việc xử lý nợ, thoái vốn, hiệu quả, công khai, minh bạch; có cơ chế giám sát, phát hiện, xử lý kịp thời những vi phạm trong quá trình triển khai thực hiện. Tiếp tục đẩy mạnh cổ phần hóa doanh nghiệp nhà nước theo hướng thực chất và hiệu quả. Việc cơ cấu, sắp xếp, cổ phần hóa doanh nghiệp nhà nước phải dựa trên nguyên tắc kinh tế thị trường. Nghiên cứu và sửa đổi những quy định không phù hợp đang cản trở quá trình cổ phần hóa doanh nghiệp nhà nước, trong đó, trước hết, liên quan đến vấn đề xác định giá trị doanh nghiệp, chọn đối tác chiến lược, bán cổ phần ưu đãi cho người lao động, tăng tính xã hội ngay trong công ty cổ phần.
Tăng cường kiểm tra, giám sát quá trình sử dụng vốn tại DNNN. Xử lý dứt điểm các dự án thua lỗ, kém hiệu quả, bảo đảm nguyên tắc công khai, minh bạch, theo cơ chế thị trường và quy định của pháp luật. Nhà nước không đầu tư, bổ sung vốn từ ngân sách nhà nước vào các dự án thua lỗ, không hiệu quả. Việc xử lý bằng các hình thức giải thể, phá sản phải bảo đảm lợi ích cao nhất của Nhà nước, quyền lợi chính đáng của người lao động và nhà đầu tư.
Tăng cường phân cấp, ủy quyền cho hội đồng thành viên, hội đồng quản trị các tập đoàn kinh tế, tổng công ty nhà nước, đồng thời tăng cường hoạt động giám sát, kiểm tra của cơ quan đại diện chủ sở hữu để kịp thời phòng ngừa, phát hiện, xử lý sai phạm theo quy định của pháp luật.
Tách bạch hoạt động kinh doanh với hoạt động công ích.Trong nền kinh tế thị trường, sự tách bạch giữa hoạt động công ích của Nhà nước và hoạt động kinh doanh là yêu cầu khách quan. Về nguyên tắc, doanh nghiệp hoạt động kinh doanh với mục tiêu là tối đa hóa lợi nhuận, doanh nghiệp công ích có mục tiêu tối đa hóa lợi ích xã hội. Nếu có sự tách bạch thì mọi hoạt động của doanh nghiệp sẽ minh bạch, đánh giá kết quả và hiệu quả hoạt động của doanh nghiệp mới chính xác. Nếu để doanh nghiệp vừa kinh doanh, vừa đảm nhiệm vai trò xã hội thì sẽ dẫn đến việc hoặc không thực hiện được mục tiêu lợi nhuận, hoặc không làm tốt được vai trò xã hội. Sự thiếu minh bạch này sẽ dễ bị các DNNN lợi dụng để biện minh cho việc kinh doanh kém hiệu quả, vì phải thực hiện các mục tiêu xã hội và ngược lại. Do đó, chỉ nên để doanh nghiệp công ích thực hiện các mục tiêu xã hội; còn các doanh nghiệp kinh doanh phải hoàn thành, có hiệu quả kinh doanh tốt và phải đặt trong điều kiện bình đẳng với các loại hình doanh nghiệp khác.
Viêc tách bạch này sẽ tạo áp lực cho lãnh đạo, buộc lãnh đạo doanh nghiệp nhà nước phải tổ chức sản xuất – kinh doanh theo cơ chế thị trường. Ngoài ra, cần xóa bỏ mọi hình thức ưu đãi đối với doanh nghiệp nhà nước, đối xử bình đẳng như các
Nâng cao năng lực quản lý và nguồn nhân lực, đào tạo, bồi dưỡng đội ngũ quản lý và nhân viên để đáp ứng yêu cầu mới trong môi trường cạnh tranh.
Chuyển đổi sang phát triển bền vững, tích cực thực hiện các chiến lược phát triển bền vững, bảo vệ môi trường và trách nhiệm xã hội.
Những giải pháp này sẽ giúp DNNN hoạt động hiệu quả hơn, đáp ứng yêu cầu phát triển kinh tế-xã hội trong bối cảnh mới.
Thứ hai, tăng cường đổi mới công nghệ
Đổi mới công nghệ là yếu tố then chốt để nâng cao hiệu quả hoạt động, cạnh tranh và đáp ứng yêu cầu phát triển bền vững trong bối cảnh mới. Trình độ công nghệ của các doanh nghiệp nhà nước Việt Nam đang trong quá trình cải thiện nhưng vẫn còn nhiều hạn chế, khó khăn. Một số điểm nổi bật về thực trạng này bao gồm:
Nhiều DNNN vẫn sử dụng công nghệ cũ, đặc biệt trong các ngành công nghiệp nặng và khai thác tài nguyên. Việc đầu tư vào công nghệ mới chưa đủ mạnh mẽ.
Năng lực đội ngũ nhân sự trong DNNN thường không đồng đều. Một số doanh nghiệp đang nỗ lực nâng cao trình độ nhưng vẫn cần nhiều cải tiến hơn nữa.
Chính phủ đã có nhiều chính sách hỗ trợ DNNN nâng cao công nghệ, nhưng việc triển khai còn chậm và chưa đồng bộ.
Khu vực tư nhân, đặc biệt là các doanh nghiệp công nghệ mới nổi, đang phát triển nhanh chóng và tạo ra áp lực cạnh tranh cho DNNN, buộc họ phải cải cách và đổi mới công nghệ.
Dù có những bước tiến nhất định, nhưng trình độ công nghệ của các doanh nghiệp nhà nước Việt Nam vẫn cần nhiều cải thiện để đáp ứng yêu cầu của thị trường hiện đại. Giải pháp chủ yếu về tăng cường đổi mới công nghệ đối với DNNN trong bối cảnh mới:
- Đầu tư vào nghiên cứu và phát triển (R&D)
Tăng cường ngân sách cho R&D, DNNN cần phân bổ nguồn lực cho các hoạt động nghiên cứu, phát triển sản phẩm và cải tiến quy trình sản xuấ; Khuyến khích đầu tư vào công nghệ mới và cải tiến quy trình sản xuất.
Hợp tác với các viện nghiên cứu, trường đại học, các doanh nghiệp tư nhân trong và ngoài nước. Tạo mối liên kết chặt chẽ giữa DNNN và các tổ chức nghiên cứu để tận dụng công nghệ mới và kiến thức chuyên môn. Tìm kiếm cơ hội hợp tác với các doanh nghiệp công nghệ để nâng cao năng lực cạnh tranh.
Nhà nước xây dựng chính sách khuyến khích đổi mới công nghệ, bao gồm các ưu đãi thuế, hỗ trợ tài chính cho DNNN. Xây dựng hạ tầng công nghệ, đầu tư vào hạ tầng công nghệ thông tin để hỗ trợ DNNN trong việc áp dụng công nghệ mới.
- Tăng cường quản lý và đổi mới quy trình sản xuất
Cải tiến quy trình sản xuất: Ứng dụng các phương pháp quản lý hiện đại như Lean, Six Sigma để tối ưu hóa quy trình, giảm lãng phí và nâng cao chất lượng sản phẩm.
Tự động hóa và robot hóa: Đầu tư vào máy móc, thiết bị tự động và công nghệ robot để nâng cao năng suất lao động.
- Đào tạo kỹ năng công nghệ và khuyến khích đổi mới sáng tạo
Đào tạo kỹ năng công nghệ: Tổ chức các khóa đào tạo về công nghệ mới cho nhân viên để họ có thể làm chủ công nghệ và cải tiến quy trình làm việc.
Khuyến khích đổi mới sáng tạo: Tạo môi trường làm việc khuyến khích nhân viên đề xuất ý tưởng mới và cải tiến công nghệ.
- Thúc đẩy hợp tác công tư vào công nghệ
Hợp tác với khu vực tư nhân: Kêu gọi đầu tư từ khu vực tư nhân vào công nghệ và đổi mới, tạo ra các mô hình hợp tác hiệu quả.
Chia sẻ thông tin và kinh nghiệm: Tạo cơ hội cho DNNN và doanh nghiệp tư nhân chia sẻ kinh nghiệm, công nghệ và thực tiễn tốt nhất.
- Tập trung vào phát triển bền vững
Công nghệ xanh và tiết kiệm năng lượng, đầu tư vào công nghệ bảo vệ môi trường, sử dụng năng lượng tái tạo để giảm thiểu tác động tiêu cực đến môi trường
Phát triển các sản phẩm và dịch vụ thân thiện với môi trường, đáp ứng nhu cầu ngày càng cao về sản phẩm bền vững.
Để DNNN có thể đổi mới công nghệ thành công trong bối cảnh hiện nay, cần sự kết hợp chặt chẽ giữa đầu tư, chính sách, đào tạo và hợp tác. Điều này không chỉ giúp nâng cao năng lực cạnh tranh mà còn góp phần vào sự phát triển kinh tế bền vững của đất nước.
Thứ ba, áp dụng công nghệ số
Việc áp dụng công nghệ số trong các doanh nghiệp nhà nước ở Việt Nam hiện nay đang diễn ra với nhiều khía cạnh tích cực nhưng cũng gặp không ít khó khăn. Về thực trạng áp dụng công nghệ số có một điểm nổi bật:
Nhiều DNNN đã bắt đầu nhận thức rõ về tầm quan trọng của công nghệ số và có chiến lược chuyển đổi số. Tuy nhiên, vẫn còn một số doanh nghiệp chưa có kế hoạch cụ thể hoặc chưa thực sự cam kết. Chưa có nhiều DNNN áp dụng công nghệ thông tin một cách hiệu quả.
Mặc dù một số DNNN đã đầu tư vào công nghệ mới như phần mềm quản lý, hệ thống ERP và tự động hóa, nhưng mức đầu tư này thường còn hạn chế và không đồng đều giữa
các lĩnh vực. Nhiều DNNN vẫn đang sử dụng hệ thống quản lý và quy trình sản xuất truyền thống.
Nhiều DNNN đã bắt đầu số hóa quy trình quản lý, từ quản lý tài chính, nhân sự đến sản xuất. Tuy nhiên, việc áp dụng chưa được đồng bộ và toàn diện. Việc áp dụng công nghệ vào quản lý chuỗi cung ứng, chăm sóc khách hàng vẫn còn nhiều khoảng trống.
Năng lực của nhân viên trong việc sử dụng công nghệ mới vẫn còn hạn chế. thường chưa đáp ứng được yêu cầu. Nhiều DNNN chưa chú trọng đến việc đào tạo và nâng cao kỹ năng số cho đội ngũ lao động.
Việc chuyển đổi số không chỉ là vấn đề công nghệ mà còn là thay đổi văn hóa tổ chức. Nhiều DNNN gặp khó khăn trong việc thay đổi tư duy và thói quen làm việc truyền thống.
Chính phủ đã có nhiều chính sách hỗ trợ DNNN trong việc chuyển đổi số, nhưng việc thực thi các chính sách này còn cần sự cải thiện và đồng bộ hơn.
DNNN phải đối mặt với áp lực từ khu vực tư nhân, đặc biệt là các doanh nghiệp công nghệ. Điều này thúc đẩy DNNN cần phải đổi mới và cải cách để nâng cao sức cạnh tranh.
Về kinh nghiệm và chia sẻ. Một số DNNN đã thành công trong việc áp dụng công nghệ số và có thể chia sẻ kinh nghiệm tốt, nhưng chưa có nhiều nền tảng kết nối giữa các doanh nghiệp để học hỏi lẫn nhau.
Tóm lại, việc áp dụng công nghệ số trong DNNN Việt Nam đang tiến triển , đang trong quá trình phát triển, nhưng cần có sự đầu tư mạnh mẽ hơn về công nghệ, nhân lực và thay đổi văn hóa để tối ưu hóa lợi ích từ quá trình này, để đạt hiệu quả tối ưu và cạnh tranh hơn trong thị trường hiện đại. Do vậy, việc áp dụng công nghệ số DNNN cần tăng cường áp dụng công nghệ thông tin, số hóa quy trình làm việc và quản lý để nâng cao hiệu suất và giảm chi phí. Phát triển thương mại điện tử. Mở rộng kênh phân phối và gia tăng khả năng tiếp cận khách hàng thông qua các nền tảng số.
Thư tư, nâng cao năng lực quản lý
Thực trạng về năng lực quản lý của doanh nghiệp nhà nước (DNNN) tại Việt Nam có một số điểm nổi bật:
Nhiều DNNN vẫn áp dụng mô hình quản lý truyền thống, dẫn đến tình trạng kém linh hoạt và chậm chạp trong việc đưa ra quyết định. Cấu trúc quản lý thường phức tạp và thiếu minh bạch.
Đội ngũ quản lý tại DNNN có trình độ và kinh nghiệm chưa đồng đều. Một số lãnh đạo có năng lực nhưng còn thiếu sự đổi mới và khả năng thích ứng với thay đổi. Việc đào tạo và phát triển nguồn nhân lực vẫn chưa được chú trọng đúng mức.
Nhiều DNNN gặp khó khăn trong việc ra quyết định nhanh chóng do quy trình phê duyệt phức tạp. Điều này ảnh hưởng đến khả năng cạnh tranh và thích ứng với thị trường.
Một số DNNN về năng lực quản lý tài chính yếu, dẫn đến tình trạng lãng phí và sử dụng nguồn lực không hiệu quả. Quá trình lập kế hoạch tài chính thường thiếu sự dự báo và phân tích chính xác.
Khả năng đổi mới và sáng tạo trong quản lý tại nhiều DNNN còn hạn chế. Việc áp dụng công nghệ mới và cải tiến quy trình sản xuất còn chậm
Tình trạng minh bạch trong quản lý vẫn còn nhiều vấn đề. Sự thiếu trách nhiệm giải trình có thể dẫn đến tham nhũng và lãng phí nguồn lực
Mặc dầu Chính phủ đã có những chính sách nhằm cải cách DNNN, nhưng việc thực hiện và giám sát các chính sách này vẫn gặp nhiều khó khăn. Do vậy, năng lực quản lý của DNNN Việt Nam còn nhiều hạn chế cần khắc phục để nâng cao hiệu quả hoạt động và cạnh tranh trong bối cảnh thị trường hiện đại. Việc cải cách mạnh mẽ trong quản lý, nâng cao trình độ nhân sự và áp dụng công nghệ mới là cần thiết để DNNN phát triển bền vững.
Giải pháp để nâng cao năng lực quản lý của DNNN, là đẩy mạnh công tác đào tạo nguồn nhân lực. Tổ chức các chương trình đào tạo, bồi dưỡng kỹ năng quản lý cho cán bộ lãnh đạo và nhân viên. Ứng dụng công nghệ thông tin, xây dựng hệ thống quản lý thông minh, cải thiện khả năng ra quyết định.
Thứ năm, tăng cường minh bạch và trách nhiệm giải trình
Công khai thông tin. Đảm bảo minh bạch trong hoạt động, tài chính của DNNN để tạo sự tin tưởng từ cộng đồng.
Thiết lập cơ chế giám sát. Thành lập các cơ quan độc lập để kiểm tra, giám sát hoạt động của DNNN.
Thứ sáu, khuyến khích đổi mới sáng tạo
Tạo môi trường khởi nghiệp; Hỗ trợ các ý tưởng đổi mới sáng tạo từ nhân viên trong DNNN.
Xây dựng quỹ đổi mới; Thành lập quỹ hỗ trợ tài chính cho các dự án đổi mới sáng tạo trong DNNN.
Thứ bẩy, thúc đẩy hợp tác công tư (PPP)
Mở rộng các hình thức đầu tư: Khuyến khích các hình thức hợp tác giữa DNNN và khu vực tư nhân để tăng cường hiệu quả đầu tư.
Chia sẻ rủi ro; tìm kiếm các mô hình hợp tác giúp giảm thiểu rủi ro cho cả hai bên.
Thứ tám, tăng cường tiếp cận thị trường
Đổi mới chiến lược marketing. Sử dụng các công cụ tiếp thị hiện đại để nâng cao khả năng tiếp cận và nhận diện thương hiệu.
Mở rộng kênh phân phối. Tìm kiếm và xây dựng các kênh phân phối mới để tăng trưởng doanh thu.
Đổi mới DNNN không chỉ là nhiệm vụ của riêng các doanh nghiệp mà còn cần sự hỗ trợ từ phía Nhà nước, các tổ chức xã hội và cộng đồng doanh nghiệp. Việc thực hiện các giải pháp trên sẽ giúp DNNN phát triển bền vững, đóng góp tích cực vào sự phát triển kinh tế của đất nước. Để thành công trong quá trình đổi mới trong bối cảnh mới cần có sự quyết tâm cao từ Đảng, Nhà nước, Chính Phủ và lãnh đạo các DNNN.