Thực tiễn cho thấy xuất phát từ nhiều lý do, doanh nghiệp nhà nước (DNNN) được hình thành và hiện diện ở mọi quốc gia trên thế giới với vai trò, quy mô, phạm vi khác nhau. Ở Việt Nam, DNNN được hình thành từ năm 1954 ở miền Bắc, từ năm 1975 ở miền Nam với vị trí và vai trò quan trọng trong nền kinh tế, là công cụ để Đảng và Nhà nước thực hiện các chủ trương, chính sách.
Các chủ trương, chính sách của Đảng cũng thay đổi qua các thời kỳ để phù hợp với quá trình đổi mới tư duy, nhận thức của Đảng và hội nhập quốc tế. Tuy nhiên xuyên suốt từ Đại hội VI đến Đại hội XIII(1) của Đảng đã khẳng định “kinh tế nhà nước phát huy vai trò chủ đạo trong nền kinh tế, là lực lượng vật chất quan trọng và là công cụ để Nhà nước định hướng và điều tiết vĩ mô nền kinh tế”, đồng thời chỉ ra “DNNN giữ những vị trí then chốt, đi đầu ứng dụng tiến bộ khoa học và công nghệ, nêu gương về năng suất, chất lượng, hiệu quả kinh tế xã hội và chấp hành pháp luật”. Với sự đóng góp to lớn từ các DNNN như một “công cụ” của Nhà nước, đã thúc đẩy tốc độ tăng trưởng nền kinh tế của Việt Nam trong những năm gần đây khá ấn tượng với GDP năm 2022, 2023 lần lượt là 8,12% và 5,05% (Bộ kế hoạch và Đầu tư, 2024), trong đó DNNN đóng góp xấp xỉ 29% tổng GDP cả nước trong năm 2022 (Đức Tuân, 2022).
Các DNNN vẫn giữ vị trí quan trọng trong nhiều ngành kinh tế, nhất là những ngành quan trọng đòi hỏi đầu tư lớn, kỹ thuật công nghệ cao và các ngành sản xuất cung ứng các hàng hóa và dịch vụ công cộng… Đồng thời, DNNN vẫn là thành phần đóng góp chủ yếu cho ngân sách nhà nước.
Tuy nhiên, do hình thành từ nhiều nguồn gốc khác nhau, chủ yếu từ thời kỳ quản lý tập trung bao cấp nên các DNNN ở Việt Nam phần lớn có quy mô doanh nghiệp nhỏ và vừa, cơ cấu phân tán còn bất hợp lý về ngành và vùng.
Khi chuyển sang cơ chế kinh tế thị trường và hội nhập vào nền kinh tế thế giới, một bộ phận không nhỏ DNNN đã gặp nhiều khó khăn, thậm chí phải giải thể, cần thực hiện sắp xếp lại. Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII của Đảng Cộng sản Việt Nam đề ra mục tiêu đến năm 2025 hoàn tất việc sắp xếp lại khối DNNN.
Cụ thể, cuối những năm 1980, số lượng DNNN là trên 12.000 doanh nghiệp, trong đó số DNNN do địa phương quản lý chiếm đến 75% và chủ yếu là các doanh nghiệp có quy mô nhỏ, công nghệ lạc hậu (Thu Thuỷ, 2019).
Qua sắp xếp, đổi mới DNNN, tính đến cuối năm 2023, cả nước có 671 DNNN với tổng tài sản là 3.899.447 tỷ đồng và vốn chủ sở hữu là 1.838.707 tỷ đồng, trong đó phần lớn nguồn lực do khối các Tập đoàn, Tổng công ty, Công ty mẹ – con nắm giữ, chiếm 92% tổng tài sản của các DNNN và 90% tổng vốn chủ sở hữu của các DNNN hoạt động trong các ngành, lĩnh vực, địa bàn then chốt, quan trọng của nền kinh tế.
Mặc dù vậy, các DNNN, đặc biệt là các tập đoàn, tổng công ty được đánh giá là có hiệu quả hoạt động chưa tương xứng với nguồn lực nắm giữ, hiệu quả đầu tư chưa như kỳ vọng… Đánh giá này được lặp đi lặp lại tại nhiều báo cáo, nghiên cứu kéo dài qua nhiều kỳ, đặt ra yêu cầu cấp bách tìm và thực hiện một số giải pháp hữu hiệu hơn.
Hoạt động của doanh nghiệp nhà nước tại một số quốc gia và bài học rút ra cho Việt Nam
Vương Quốc Anh
Tuy chỉ có khoảng 68 triệu dân nhưng Vương Quốc Anh có nền kinh tế lớn thứ 5 trên thế giới theo GDP danh nghĩa, là một quốc gia công nghiệp phát triển với kỹ nghệ tiên tiến, có sức ảnh hưởng đáng kể về kinh tế, văn hoá, quân sự, khoa học, kỹ thuật và chính trị với tiếng Anh là ngôn ngữ toàn cầu.
Sau những nỗ lực cổ phần hóa đáng kể trong những năm 1980 và 1990, Vương Quốc Anh hạn chế đáng kể việc sở hữu DNNN. Tổng giá trị đầu tư tại DNNN giảm dần từ 10,9% năm 1979 xuống còn 2,2% năm 1997.
Theo đó, khoảng 1 triệu người lao động đã chuyển từ khu vực công sang làm việc tại các DNNN, khu vực tư nhân. Tương ứng, tỷ lệ việc làm tại DNNN giảm từ 7,2% năm 1979 xuống dưới 1% năm 1997. Vương Quốc Anh hiện nay chỉ tập trung duy trì sở hữu nhà nước đối với cung cấp dịch vụ công như Dịch vụ y tế Quốc gia (National Health Service), Tập đoàn Phát thanh truyền hình Anh (BBC) và sở hữu cổ phần chi phối tại một số doanh nghiệp trong các lĩnh vực chiến lược nhằm hạn chế ảnh hưởng của nước ngoài.
DNNN tại Vương Quốc Anh được quản lý bởi hai đơn vị là Cơ quan Điều hành cổ đông (ShEx) và Cơ quan Đầu tư tài chính Vương quốc Anh (UKFI) trực thuộc Cơ quan Đầu tư Chính phủ Vương quốc Anh (UKGI), một DNNN thuộc sở hữu của Kho bạc (HM Treasury).
Trong đó, UKFI được thành lập sau cuộc khủng hoảng tài chính, để quản lý phần vốn nhà nước tại các ngân hàng được chính phủ giải cứu như Lloyds và Royal Bank of Scotland, NRAM và Bradford & Bingley.
Trong khi đó, ShEx, tính đến 2015, giám sát 23 DNNN hoạt động trong các lĩnh vực đa dạng như truyền thông, tài chính, hạt nhân, hàng không… trong đó, lĩnh vực năng lượng được Vương Quốc Anh được chuyển đổi bằng sở hữu tư nhân hoàn toàn, tuy nhiên các công ty năng lượng được yêu cầu phải thực hiện các chính sách công như an ninh năng lượng và bảo vệ môi trường.
Để đạt được các mục tiêu xã hội mong muốn và khắc phục “vấn đề ông chủ và người đại diện (principal – agent problem)”, các doanh nghiệp sau khi chuyển sang sở hữu tư nhân phải chịu sự giám sát chặt chẽ của các cơ quan quản lý nhà nước. Các cơ quan này đặt ra các tiêu chuẩn, thúc đẩy cạnh tranh và bảo vệ người tiêu dùng. Ví dụ, công ty đường sắt (Network Rail Limited) được quản lý bởi Văn phòng Đường sắt và Đường bộ.
Tương ứng các doanh nghiệp trong các ngành cụ thể sẽ do các cơ quản quản lý nhà nước chuyên ngành khác như Văn phòng Thị trường Khí đốt và Điện (Ofgem), Văn phòng Truyền thông, Cơ quan Quản lý Dịch vụ Nước và Cơ quan Quản lý Tài chính… giám sát (European Union, 2016).
Thụy Điển
Thụy Điển là một nước trong khối EU có nền kinh tế phát triển cao, duy trì một hệ thống phúc lợi xã hội rộng rãi, cung cấp dịch vụ chăm sóc sức khỏe tổng quát và giáo dục đại học miễn phí cho người dân. Thụy Điển đứng thứ 11 thế giới về thu nhập bình quân đầu người (United Nations, 2013).
Các doanh nghiệp thuộc sở hữu nhà nước ở Thụy Điển có giá trị 460 tỷ SEK (khoảng 12% GDP của Thụy Điển) và tạo ra lợi nhuận 16,5 tỷ SEK trong năm 2014. Danh mục DNNN bao gồm 49 doanh nghiệp, mang lại việc làm cho khoảng 163.000 người (khoảng 3,5% tổng số việc làm toàn quốc). Thụy Điển tập trung sở hữu nhà nước tại các ngành trọng tâm như công nghiệp / năng lượng cơ bản và viễn thông, chiếm lần lượt 32% và 18% tổng số DNNN năm 2014.
Mục tiêu chính đối với các DNNN của Thụy Điển là tạo ra giá trị và đảm bảo cung cấp dịch vụ công, bảo vệ môi trường. Trong giai đoạn 2006 – 2014, Thụy Điển chủ trương thoái vốn khỏi các doanh nghiệp thương mại có hoạt động tốt. Theo đó, từ năm 2007 đến năm 2013, Thụy Điển đã thực hiện thoái 160 tỷ SEK vốn nhà nước. Hoạt động này khiến doanh thu tài chính từ thu cổ tức DNNN giảm từ 31,3 tỷ SEK (0,8% GDP) năm 2007 xuống còn 18,1 tỷ SEK (0,5% GDP) năm 2014 (European Union, 2016).
Trung Quốc
Trung Quốc là nền kinh tế lớn thứ 2 trên thế giới (chỉ sau Hoa Kỳ) với tổng GDP năm 2022 đạt 16.325 tỷ USD. Nền kinh tế của Trung Quốc trong những năm qua được đánh giá tương đối ổn định với các chỉ số kinh tế vĩ mô như lạm phát, tỷ lệ thất nghiệp được duy trì ở mức tương đối thấp. Trong giai đoạn 2013-2022, tỷ lệ lạm phát trung bình của Trung Quốc là 2% và tỷ lệ thất nghiệp trung bình là 4,6% (VCCI, 2024).
Nghiên cứu “Doanh nghiệp nhà nước Trung Quốc: Nhìn lại 40 năm nghiên cứu và thực tiễn” (K. J. Lin, X. Lu, J. Zhang, Y. Zheng, 2019) đánh giá Trung Quốc thiếu các hoạt động hỗ trợ thị trường mà thay vào đó là sự can thiệp sâu rộng của Nhà nước, trong đó thông qua DNNN.
Các DNNN thường được coi là hoạt động kém hiệu quả, tuy nhiên nền kinh tế Trung Quốc được đánh giá là phụ thuộc nhiều vào các DNNN thì lại có sự tăng trưởng tốt trong thời gian qua. Trong giai đoạn từ năm 1997 đến năm 2016, số lượng DNNN ở Trung Quốc có chiều hướng giảm nhưng tổng tài sản của khối DNNN đã tăng 11.39 lần (đạt 151.711 tỷ RMB, tương đương 22.310 USD), doanh thu tăng 5.6 lần.
Nghiên cứu từ đó chỉ ra ba lý do cho sự thành công trên ở Trung Quốc là sự can thiệp của Nhà nước giúp chuyển dịch nguồn lực vào những ngành thiết yếu của nền kinh tế mà cơ chế thị trường không thực hiện được (đầu tư lớn, dài hạn…); DNNN được Nhà nước sử dụng để đạt được các mục tiêu kinh tế – xã hội bên cạnh khả năng sinh lời.
Ví dụ, DNNN được sử dụng để giải quyết việc sử dụng lao động dư thừa; DNNN là công cụ để Nhà nước duy trì kiểm soát xã hội đối với các sản phẩm đầu ra của DNNN sao cho phù hợp với mục tiêu của Nhà nước. Các DNNN ở Trung Quốc đã cung cấp hơn 52.200 tỷ RMB (khoảng 7.676 USD) hàng hóa và dịch vụ trong năm 2017.
Tuy nhiên với nhiều nhiệm vụ chính trị, xã hội phải gánh vác làm cho hiệu quả kinh tế của DNNN giảm sút. Cụ thể, khi được giao thực hiện chính sách duy trì ổn định xã hội, DNNN ở Trung Quốc phải chịu chi phí vốn cao; chi phí liên quan đến lương, phúc lợi xã hội và sử dụng lao động dư thừa. Điều này đi ngược lại với kế hoạch và mục tiêu kinh tế của các doanh nghiệp. Cơ cấu phân cấp tại Trung Quốc cũng gây cản trở cho hoạt động của các DNNN. Với khoảng cách thông tin lớn giữa Nhà nước và các DNNN, việc đưa ra các quyết định sản xuất kinh doanh trở nên kém hiệu quả hơn, gián tiếp ảnh hưởng đến kết quả hoạt động của doanh nghiệp.
Singapore
Sau khi giành độc lập năm 1965, kinh tế Singapore phụ thuộc nhiều vào nước ngoài, các doanh nghiệp trong nước tương đối yếu, chưa xây dựng được thị trường tiền tệ… do đó Nhà nước phải đứng ra huy động vốn để đầu tư vào các dự án lớn, dài hạn.
Tuy nhiên, Nhà nước Singapore xác định chỉ đóng vai trò hỗ trợ phát triển chứ không can thiệp vào hoạt động của nền kinh tế. Theo đó, Nhà nước Singapore tập trung vào xây dựng môi trường kinh doanh cạnh tranh lành mạnh giữa các DNNN, trong đó kể cả doanh nghiệp vừa và nhỏ đều có điều kiện và được khuyến khích phát triển.
Quan điểm trên được thể hiện rõ ở cách thức quản lý vốn nhà nước của Singapore thông qua Temasek Holdings – quỹ đầu tư quốc gia của Singapore. Temasek tập trung đầu tư và kinh doanh vào một số lĩnh vực có lợi nhuận tốt với vai trò chỉ là cổ đông theo cơ chế thị trường (chỉ tham gia vào những vấn đề lớn như chính sách quản trị, định hướng chiến lược phát triển…, thực hiện mua bán, sáp nhập, thoái vốn đối với các doanh nghiệp theo hiệu quả sản xuất kinh doanh). Lợi nhuận thu được sẽ được Temasek nộp cho Nhà nước chia lại cho người dân thông qua phúc lợi xã hội như trợ cấp, hưu trí… (Thanh Bình, 2017).
Các doanh nghiệp có vốn Nhà nước đầu tư ở Singapore theo đó được định nghĩa là “các công ty liên kết với chính phủ (government-linked companies – GLCs)” thay vì thuật ngữ DNNN. Tính đến 31/3/2024, Singapore có 100 GLCs với tổng giá trị đầu tư là S$389 billion do Temasek quản lý (Temasek, 2024). GLCs ở Singapore hoạt động gần giống như các doanh nghiệp tư nhân trên cơ sở cạnh tranh thương mại và không hưởng các đặc quyền từ Nhà nước, cũng như không bị yêu cầu thực hiện các nhiệm vụ xã hội.
Với mục tiêu tối ưu hóa lợi nhuận, GLCs ở Singapore tập trung chủ yếu tại một số lĩnh vực then chốt như sản xuất, tài chính, thương mại, vận tải, đóng tàu và dịch vụ. Một số GLCs được tư nhân hoá, niêm yết, phát triển thành các công ty lớn có tên tuổi được công nhận rộng rãi trong khu vực và thậm chí trên toàn cầu như Singapore Airlines (Carlos D. Ramírez và Ms. Ling H Tan, 2003)
Tóm lại, qua các đánh giá thực trạng hoạt động của DNNN ở một số quốc gia lớn trên thế giới có thể thấy về cơ bản DNNN đóng vai trò quan trọng trong nền kinh tế của các
quốc gia. DNNN hiện diện đa số trong các ngành, lĩnh vực trọng yếu, có tính lan toả, mang lại lợi ích cho phát triển kinh tế – xã hội như các dịch vụ công cộng và cơ sở hạ tầng, năng lượng, giao thông vận tải và viễn thông.
Sự can thiệp của Nhà nước là tất yếu để nâng cao hiệu quả của thị trường. Tuy nhiên với nhiều nhiệm vụ chính trị, xã hội phải gánh vác làm cho hiệu quả kinh tế của DNNN có thể bị ảnh hưởng. Do đó, cần có sự cân đối trong sự can thiệp của Nhà nước đối với DNNN.
Đồng thời, cần trao quyền chủ động cho DNNN trong việc đưa ra các quyệt định sản xuất kinh doanh để bắt kịp tốc độ của thị trường, nâng cao hiệu quả hoạt động của doanh nghiệp.
Thực trạng hoạt động của doanh nghiệp Nhà nước ở Việt Nam
Theo Báo cáo của Chính phủ trình Quốc hội (2024), tính đến cuối năm 2023, cả nước có 671 DNNN bao gồm 06 tập đoàn kinh tế, 53 tổng công ty nhà nước và 19 Công ty TNHH MTV hoạt động theo mô hình công ty mẹ – con.
Trong đó, tuy chỉ chiếm hơn 10% về số lượng, nhưng khối các tập đoàn, tổng công ty, công ty mẹ – con lại có vai trò kinh tế quan trọng, nắm giữ 92% tổng tài sản và 90% tổng vốn chủ sở hữu, 93% tổng doanh thu và 85% tổng đóng góp ngân sách nhà nước của DNNN trên toàn quốc. Tổng tài sản và tổng vốn chủ sở hữu của khối DNNN đạt lượt lượt là 3.899.447 tỷ đồng và 1.838.707 tỷ đồng.
Tính đến hết năm 2022, khối các tập đoàn, tổng công ty, công ty mẹ – con đang nắm giữ khoảng 7% tổng tài sản và 10% vốn chủ sở hữu của doanh nghiệp trên toàn quốc, chiếm khoảng 25,78% tổng vốn sản xuất, kinh doanh và 23,4% giá trị tài sản cố định và đầu tư tài chính dài hạn của doanh nghiệp trên toàn quốc. Các DNNN đóng góp khoảng 28% ngân sách nhà nước, thu hút khoảng 0,7 triệu lao động, chiếm khoảng 7,3% lao động của doanh nghiệp trên toàn quốc (Hà Văn, 2023).
Với các chủ trương, chính sách của Đảng thay đổi qua các thời kỳ để phù hợp với quá trình đổi mới tư duy, nhận thức của Đảng và hội nhập quốc tế, vai trò chính trị của DNNN cũng có sự thay đổi. Nếu trong thời điểm quản lý tập trung bao cấp, các DNNN được thành lập và tham gia hầu hết các ngành, lĩnh vực trong nền kinh tế thì đến giai đoạn thực hiện phát triển kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa hiện nay, đòi hỏi DNNN phải sắp xếp, đổi mới.
Theo đó, Nhà nước thực hiện các kế hoạch sắp xếp lại DNNN, doanh nghiệp có vốn nhà nước(1) trong đó hướng đến mục tiêu tinh giảm số lượng DNNN. Nhà nước tập trung nguồn lực đầu tư vào doanh nghiệp trong những lĩnh vực then chốt, thiết yếu, những địa bàn quan trọng và quốc phòng, an ninh; những lĩnh vực mà doanh nghiệp thuộc các thành phần kinh tế khác không đầu tư, ứng dụng công nghệ cao, đầu tư lớn, tạo động lực phát triển nhanh cho các ngành, lĩnh vực khác và nền kinh tế.
Một số tập đoàn, tổng công ty quy mô lớn nắm vai trò chi phối, chủ đạo trong những ngành, lĩnh vực trọng yếu, thiết yếu của nền kinh tế(1) như đảm bảo cung ứng xăng dầu trong biến động của thị trường (cung ứng 13,76 triệu m3 xăng dầu, 10,84 triệu tấn dầu thô, chiếm 50% thị phần xăng dầu bán lẻ cả nước); đảm bảo an ninh, cung ứng năng lượng bao gồm điện cho sinh hoạt và sản xuất kinh doanh (cung ứng 242,7 tỷ kWh điện, chiếm khoảng 48% điện năng cả nước), khai thác khí (cung ứng 8,08 tỷ m3 khí, chiếm 100% khí khô, 70% khí hóa lỏng cả nước), than đá (cung ứng 42,2 triệu tấn than sạch); cung ứng sản phẩm công nghiệp, nông nghiệp cho nền kinh tế bao gồm hóa chất cơ bản (cung ứng 842 nghìn tấn hóa chất cơ bản), phân bón (cung ứng 4,8 triệu tấn phân bón, chiếm 70% phân bón cả nước), cây giống (cung ứng 41,6 triệu cây giống); cung cấp hạ tầng công nghệ thông tin, viễn thông (chiếm hơn 90% thị phần về thuê bao di động và băng rộng di động mặt đất)…(CMSC, 2023).
Theo chỉ đạo của Nhà nước, các DNNN đã thực hiện một số chương trình, dự án an sinh xã hội hỗ trợ vùng, miền như chương trình cấp điện nông thôn, miền núi và hải đảo giai đoạn 2013 – 2020(2) với mục tiêu đến 2020 hầu hết số hộ nông thôn có điện với tổng số vốn đầu tư gần 29.000 tỷ đồng (trong đó bao gồm gần 25.000 tỷ đồng vốn nhà nước và hơn 4000 tỷ đồng vốn đối ứng của Tập đoàn Điện lực Việt Nam).
Trong chương trình hỗ trợ giảm nghèo đối với 61 huyện nghèo(3), khối DNNN đã hỗ trợ tổng cộng 3.138 tỷ đồng. Các DNNN cũng tích cực tham gia xây dựng nhà tình nghĩa, đóng góp cho các quỹ khuyến học, hỗ trợ thiết bị y tế, hỗ trợ đồng bao gặp thiên tai…
Bên cạnh đó, hoạt động mang tính chính trị – xã hội “giải cứu” Tổng công ty Hàng không Việt Nam (Vietnam Airlines) bị ảnh nặng nề bởi đại dịch COVID-19 của Tổng công ty Đầu tư và Kinh doanh vốn nhà nước (SCIC) theo chỉ đạo của Chính phủ vừa qua đã gây ấn tượng mạnh với thị trường và được giới truyền thông bình chọn là một trong 10 sự kiện tiêu biểu trên thị trường chứng khoán Việt Nam trong năm 2021.
Với nguồn vốn được giải ngân kịp thời, Vietnam Airlines đã vượt qua được khó khăn và tiếp tục hoạt động để giữ vững thương hiệu quốc gia.
Đánh giá thực trạng hoạt động của doanh nghiệp Nhà nước ở Việt Nam
Trong giai đoạn vừa qua công tác sắp xếp, đổi mới DNNN đã có những kết quả đáng ghi nhận. DNNN được tinh giảm về số lượng, nhưng tăng cường về chất lượng. Nguồn thu từ cổ phần hóa, thoái vốn nhà nước được tập trung đầu tư cho những ngành, lĩnh vực có tính nền tảng, ứng dụng công nghệ cao, mang tầm chiến lược và có khả năng tạo động lực, dẫn dắt các ngành, lĩnh vực khác phát triển nhằm thực hiện hóa chủ trương của Đảng, Nhà nước về đổi mới mô hình tăng trưởng, cơ cấu lại nền kinh tế.
Những ngành, lĩnh vực này đòi hỏi vốn đầu tư lớn, chậm thu hồi vốn, không có khả năng tối đa hóa lợi nhuận trong ngắn hạn nên khó thu hút đầu tư tư nhân.
Đặc biệt, các tập đoàn, tổng công ty giữ vai trò to lớn trong sản xuất, cung ứng sản phẩm, dịch vụ công ích. Nhiều tập đoàn, tổng công ty nhà nước trực tiếp thực hiện các chính sách an sinh xã hội, phát triển kinh tế kết hợp với bảo đảm quốc phòng, an ninh và chủ quyền quốc gia; đóng vai trò quan trọng trong xây dựng và phát triển hệ thống kết cấu hạ tầng giao thông, viễn thông đồng bộ cho phát triển kinh tế – xã hội.
Trong một số thời điểm, nhiều tập đoàn, tổng công ty nhà nước phải thực hiện các nhiệm vụ chính trị – xã hội, phục vụ chính sách điều tiết kinh tế, ổn định kinh tế vĩ mô, bình ổn giá…
Bên cạnh nhưng thành công nêu, với cơ chế, chính sách quy định quản lý đối với DNNN còn bất cập khiến cho công tác sắp xếp, đổi mới DNNN vẫn chậm so với kế hoạch đề ra. Còn có những DNNN có tồn đọng tài chính, đầu tư kéo dài gây lãng phí, thiệt hại lớn, hiệu quả thu về không cao.
Thêm vào đó, DNNN ở Việt Nam chủ yếu là hoạt động trong các ngành, lĩnh vực có mức độ cạnh tranh thấp, tập trung vào ngành khai thác tài nguyên và tận dụng điều kiện tự nhiên (khai khoáng) hoặc những ngành, lĩnh vực thống lĩnh, chi phối thị trường (như viễn thông, năng lượng). Do đó, tính cạnh tranh để nâng cao chất lượng sản phẩm, dịch vụ của khối DNNN còn thấp.
Mặt khác, tuy sở hữu nguồn lực to lớn của quốc gia nhưng hoạt động của DNNN vẫn được đánh giá chưa tưng xứng, chưa đạt được kỳ vọng.
Tỉ trọng đầu tư của khối DNNN vào một số ngành công nghệ cao có khả năng chuyển đổi cơ cấu kinh tế theo hướng công nghiệp hoá, hiện đại hóa như sản xuất linh kiện máy móc cơ khí chính xác, công nghệ lõi, chíp bán dẫn… con thấp. Năng lực cạnh tranh về khoa học công nghệ của khối DNNN ở Việt Nam còn hạn chế, chưa đáp ứng được yêu cầu của cuộc cách mạng công nghiệp lần thứ tư.
Một số quan điểm giải pháp nâng cao hiệu quả hoạt động của doanh nghiệp Nhà nước ở Việt Nam
Trên cơ sở đúc kết các kinh nghiệm từ một số quốc gia lớn và đánh giá thực trạng hoạt động của DNNN ở Việt Nam, một số quan điểm giải pháp nâng cao hiệu quả hoạt động của DNNN ở Việt Nam bao gồm:
- Tiếp tục hoàn thiện khung pháp lý về quản lý và đầu tư vốn nhà nước tại doanh nghiệp theo hướng phải trao cho doanh nghiệp quyền tự chịu trách nhiệm quản lý vốn và hoạt động đầu tư kinh doanh. Tách bạch triệt để giữa chức năng đại diện chủ sở hữu nhà nước với chức năng quản lý nhà nước đối với DNNN, song song với việc tăng cường hoạt động giám sát, kiểm tra của chủ sở hữu là Nhà nước.
Nhà nước thực hiện quản lý các hoạt động chính trị – xã hội trên nguyên tắc giao cho các doanh nghiệp thuộc mọi thành phần kinh tế thực hiện một cách bình đẳng, công khai, minh bạch và đảm bảo nguồn kinh phí thực hiện từ ngân sách nhà nước. DNNN được hoạt động bình đẳng như các loại hình doanh nghiệp khác theo Luật doanh nghiệp.
- Thực hiện tinh gọn và nâng cao chất lượng quản trị của hệ thống các cơ quan tham gia thực hiện vai trò chủ sở hữu nhà nước đối với vốn nhà nước đầu tư vào doanh nghiệp. Hướng đến chỉ nên có một cơ quan làm đầu mối, tập trung các quyết định quan trọng và giám sát, kiểm tra nhằm tăng cường hơn sự chủ động của doanh nghiệp.
- Tiếp tục rà soát, sắp xếp, đổi mới lại DNNN, cơ cấu vốn nhà nước đầu tư vào những doanh nghiệp trong những lĩnh vực then chốt, thiết yếu; những lĩnh vực phục vụ xã hội mà đòi hỏi vốn đầu tư lớn, các doanh nghiệp thuộc các thành phần kinh tế khác không tham gia đầu tư. Tiến tới DNNN rút khỏi các ngành, lĩnh vực kinh doanh cạnh tranh mà các thành phần kinh tế khác có thể thực hiện tốt hơn, hiệu quả hơn, góp phần thực hiện chủ trương phát triển kinh tế tư nhân trở thành một động lực quan trọng của nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa.
- Tập trung đầu tư vào hạ tầng, công nghệ cao để tạo động lực phát triển các ngành, lĩnh vực khác. Các tập đoàn, tổng công ty tập trung đầu tư phát triển khoa học, công nghệ làm động lực tăng trưởng cho bản thân doanh nghiệp và cho cả nền kinh tế, như ứng dụng và phát triển công nghệ mới kết nối 5G, trí tuệ nhân tạo, chuỗi khối (blockchain), năng lượng sạch, công nghiệp bán dẫn, dược phẩm…
Đổi mới, tái cấu trúc mô hình quản trị của DNNN theo hướng tinh gọn, hiện đại, đáp ứng chuẩn mực quốc tế. Thực hiện chế độ tiền lương, tiền thưởng, thù lao của người lao động và người quản lý theo cơ chế thị trường, tăng cường đào tạo nâng cao trình độ chuyên môn, nghiệp vụ để khuyến khích, nâng cao năng suất lao động, kết quả sản xuất kinh doanh, chất lượng hàng hoá. Từ đó, nâng cao được năng lực cạnh tranh của khối DNNN.