Đề xuất các giải pháp đổi mới DNNN nói chung, TCTHKVN nói riêng đáp ứng yêu cầu trong bối cảnh mới

VNA Spirit xin đăng tải bài tham luận của PGS, TS. Trần Kim Chung – Nguyên Phó Viện trưởng, Viện Nghiên cứu quản lý kinh tế Trung ương tại Hội thảo “Nâng cao vai trò của thành phần kinh tế nhà nước trong nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam – Thực tiễn Tổng Công ty Hàng không Việt Nam – Vietnam Airlines”, tổ chức ngày 10/11.

BÀI VIẾT LIÊN QUAN

Thế giới đang có nhiều biến động cả thuận lợi và khó khăn cho phát triển kinh tế thế giới nói chung, khu vực nói riêng và Việt Nam. Các quốc gia, một mặt tham gia vào nền kinh tế thế giới, một mặt, phải xây dựng nền kinh tế độc lập, tự chủ, tăng cường khả năng chống chịu.

Nghiên cứu này, góp một tiếng nói về vấn đề giải pháp đổi mới doanh nghiệp nhà nước nói chung, Tổng công ty Hàng không Việt nam nói riêng đáp ứng yêu cầu trong bối cảnh mới, gồm 2 phần. Phần thứ nhất luận về bối cảnh và yêu cầu đối với Việt Nam nói chung và Doanh nghiệp nhà nước cũng như Tổng Công ty Hàng không Việt Nam. Phần 2 kiến nghị một số giải pháp để doanh nghiệp nhà nước Việt Nam nói chung và Tổng Công ty Hàng không Việt Nam nói riêng cần tiến hành để đáp ứng yêu cầu bối cảnh mới.

Một là, thế giới đang hội nhập và chia tách đan xen. Một mặt, các hiệp định thương mại thế hệ mới, kết nối khu vực được đẩy mạnh. Trong số những điển hình là Hiệp định đối tác tiến bộ toàn diện Thái Bình Dương (CPTPP) và Hiệp định đối tác toàn diện RCEP. Đồng thời BRICS ngày càng được nhiều quốc gia quan tâm và muốn gia nhập. Bên cạnh đó, ASEAN ngày càng trở thành một tổ chức được nhiều bên quan tâm. Bên cạnh các quan hệ ASEAN-EU; ASEAN+1, hiện nay rất nhiều quốc gia Châu Phi muốn trở thành quan sát viên… Ngược lại, xu thế chia tách cũng đang xuất hiện. Bên cạnh Nước Anh tiến hành Brexit, nhiều cuộc xung đột vũ trang khu vực đang xảy ra. Điển hình nhất là Brexit và xung đột Nga – Ucraine cũng như xung đột ở Trung Đông.

Hai là, trong bối cảnh hội nhập và chia tách đan xen hiện nay, các bên liên quan đều điều chỉnh mục tiêu chiến lược cũng như để ứng phó với các rủi ro địa chính trị, các luồng vốn có xu hướng dịch chuyển khỏi các quốc gia truyền thống (chẳng hạn Trung Quốc) và vận hành đến các nền kinh tế mới nổi (như ASEAN). Việt Nam là một quốc gia vốn có thể vận hành đến. Vấn đề đặt ra là làm thế nào để cạnh tranh thu hút được nguồn vốn đó.

Ba là, khi vốn vận hành đến các quốc gia mới nổi, vấn đề đặt ra là làm thế nào để giữ vốn ở lại. Hơn nữa, làm thế nào để huy động được vốn nội địa tham gia vào quá trình sản xuất cùng với các doanh nghiệp nước ngoài đầu tư vào Việt Nam để vốn nước ngoài không lấn át, chèn ép vốn trong nước mà hợp tác với nhau, trong đó, vốn từ khu vực kinh tế tư nhân phải thực sự tham gia vào quá trình đầu tư phát triển.

PGS, TS. Trần Kim Chung – Nguyên Phó Viện trưởng, Viện Nghiên cứu quản lý kinh tế Trung ương

Bốn là, Việt Nam là một nền kinh tế hội nhập ngày càng sâu rộng với kinh tế thế giới. Việt Nam là quốc gia đến sau trong hội nhập WTO nhưng là một trong những quốc gia khởi xướng hợp tác thương mại thế hệ mới. Độ mở của nền kinh tế Việt Nam vào nhóm cao của các quốc giá trên thế giới. Để thành công tiếp tục với công cuộc hội nhập, Việt Nam cần tiến hành đồng thời nhiều giải pháp. Tựu trung lại, cần nâng cao năng lực cạnh tranh quốc gia, ngành hàng và doanh nghiệp Việt Nam, trong đó có doanh nghiệp tư nhân.

Năm là, thế giới đang trong công cuộc Cách mạng công nghiệp lần thứ tư với nhiều cơ hội và thách thức(3). Một mặt, cách mạng công nghiệp 4.0 tạo ra nhiều cơ hội: Không gian kinh tế mới; công nghệ mới; sản phẩm mới. Thế giới sẽ được mở rộng hơn đi liền với liên kết mạnh mẽ hơn. Tuy nhiên,cách mạng công nghiệp 4.0 cũng tạo ra các thách thức, nguy cơ tiềm tàng về dịch chuyển vốn; về cạnh tranh giữa thế giới thực và thế giới ảo. Việt Nam là quốc gia đến sau trong các cuộc cách mạng công nghiệp trước nhưng đồng hành với thế giới trong công cuộc cách mạng công nghiệp 4.0 – hiện đại hóa. Vấn đề đặt ra là làm thế nào để vượt qua bẫy gia công, doanh nghiệp Việt Nam, đặc biệt là doanh nghiệp tư nhân phải tham gia được vào các chuỗi đó.

Sáu là, Việt Nam tiếp tục xây dựng nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa. Xây dựng nền kinh tế thị trường, với nòng cốt là tạo điều kiện cho cơ chế thị trường vận hành. Cơ chế thị trường vận hành làm nền tảng cho cạnh tranh – từ đó, nguồn lực được phân bổ cho địa bàn, khu vực, chủ thể nào sử dụng nó hiệu quả nhất.

Trong giai đoạn đến năm 2030, tầm nhìn 2045, việc tiếp tục xây dựng nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa đòi hỏi phải tiếp tục đổi mới, cải cách tựu trung lại, cần tạo lập môi trường kinh doanh dựa trên cạnh tranh bình đẳng và hiệu quả cho tất cả các thành phần kinh tế mà kinh tế tư nhân là một bộ phận quan trọng. Bên cạnh đó, Việt Nam đang trong quá trình đô thị hóa mạnh mẽ. Cùng với công nhiệp hóa, hiện đại hóa, xây dựng nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, hội nhập sâu rộng, quá trình dân cư dịch chuyển đến các trung tâm, các địa bàn quan trọng là xu thế tất yếu.

Bảy là, quá trình đô thị hóa như là khía cạnh đối ngẫu của các quá trình công nghiệp hóa, thị trường hóa, hội nhập hóa và số hóa. Thực chất của đô thị hóa là tăng cường tập trung nhân tài, vật lực trong một địa bàn có lợi thế để tối ưu hóa kinh tế về quy mô. Việt Nam, hiện nay đang có quy mô đô thị hóa trên 40%, triển vọng 50% vào năm 2030.

Việc Việt Nam được đánh giá thành công trong phát triển đô thị mà trách được hình thành các khu ổ chuột được thế giới đánh giá cao. Cùng với đó là các công trình hạ tầng lớn phát triển mạnh (sân bay, đường cao tốc, các công trình hạ tầng đô thị…) các đô thị được, nhất là các đô thị TOD dọc theo các công trình hạ tầng phát triển mạnh. Điều này, đến lượt nó, tác động đến sự phát triển của các doanh nghiệp nói chung, doanh nghiệp nhà nước nói riêng. Trong đó, doanh nghiệp hàng không được hưởng nhiều lợi thế những cũng tiềm tàng những rủi ro.

Tám là, Việt Nam đã là quốc gia có thu nhập trung bình (thấp), hạ tầng cơ sở đang vào giai đoạn đầu tư nâng cấp mạnh mẽ. Để vượt qua bẫy thu nhập trung bình, một trong những yêu cầu là phải đầu tư mạnh để nâng cấp hạ tầng. yêu cầu về hạ tầng giai đoạn đến 2030, tầm nhìn 2045 đòi hỏi có cơ chế mạnh mẽ; hiệu quả để thu hút nguồn vốn đầu tư. Vấn đề là làm sao để có thể nâng cấp hạ tầng nhưng không rơi vào bẫy nợ nước ngoài. Đây thực sự là vấn đề quan trọng trong giai đoạn 2030, tầm nhìn 2045. Việc ban hành Luật về phát triển cơ sở hạ tầng có thể là một hướng giải pháp.

Chín là, các nguy cơ an ninh phí truyền thống và biến đổi khí hậu ngày càng rõ nét. Bảy là, xuất hiện các nguy cơ an ninh phi truyền thống và biến đổi khí hậu mạnh mẽ. Các mối nguy cơ an ninh phi truyền thống như đại dịch COVID-19 chưa có tiền lệ gây ảnh hưởng nghiêm trọng đến chuỗi sản xuất và chuỗi cung ứng do việc tiến hành dãn cách. Bên cạnh đó, các cuộc cách mạng màu, các cuộc phản đối theo phương thức mới cũng đem lại những tác động không nhỏ đến tình hình kinh tế thế giới và mỗi quốc gia. Hơn nữa, biến đổi khí hậu diễn ra nhanh hơn, mạnh hơn so với dự báo cũng đem lại những tác động không nhỏ về nước biển dâng, ngập mặn, hạn hạn, lũ lụt, sóng thần… đối với các quốc gia. Việt nam cũng không nằm ngoài những ảnh hưởng của an ninh phí truyền thống.

Bên cạnh đó, Việt Nam là một trong những quốc gia bị ảnh hưởng nặng nhất bởi biến đổi khí hậu. Việt Nam được Ủy ban liên chính phủ về biến đổi khí hậu (IPCC) xác định là một trong những quốc gia có khả năng bị ảnh hưởng nặng nề nhất bởi biến đổi khí hậu do có bờ biển rộng, đồng bằng và đồng bằng ngập lụt rộng lớn, vị trí nằm trên đường đi của bão cũng như dân số nghèo đói lớn. Việc ứng phó với hạn hán, xâm nhập mặn và xói lở bờ biển tại Đồng bằng sông Cửu Long đang là những vấn đề hết sức quan trọng. Điều quan trọng nhất là cần thích ứng và vượt qua biến đổi khí hậu. Và điều đó đòi hỏi rất nhiều trong quá trình phát triển.

Mười là, Việt Nam đang bước vào một kỷ nguyên mới. Với vị thế và tiềm năng mới, thế và lực mới tiếp tục đổi mới mô hình tăng trưởng, cơ cấu lại nền kinh tế, trong đó có cơ cấu lại hệ thống doanh nghiệp, trọng tâm là doanh nghiệp nhà nước để có thể vươn tới quốc gia phát triển, thu nhập cao, các doanh nghiệp nhà nước cần có chiến lược mới, bước đi mới. Hãng hàng không quốc gia, tất yếu sẽ phải có một diện mạo mới, tầm thế mới, địa bàn chiến lược mới, thị trường mới.

Nhiệm vụ, giải pháp

Một là, tiếp tục đẩy mạnh đổi mới mô hình tăng trưởng, cơ cấu lại nền kinh tế, trong đó có cơ cấu lại hệ thống doanh nghiệp mà trọng tâm là doanh nghiệp nhà nước, theo hướng tăng cường chất lượng tăng trưởng dựa trên nền tảng đổi mới sáng tạo. Trong đó: Tập trung cơ cấu lại các tập đoàn kinh tế, các tổng công ty: Cơ cấu lại Tập đoàn, tổng công ty theo hướng rút vốn ra khỏi những ngành và lĩnh vực không thuộc chức năng mà Nhà nước cần nắm giữ. Chuyển các tập đoàn kinh tế về hình thức tổng công ty chỉ kinh doanh đúng ngành nghề Nhà nước cần nắm giữ. Đẩy mạnh cổ phần hóa doanh nghiệp nhà nước theo hướng tìm kiếm các nhà đầu tư chiến lược có khả năng quản lý, phát triển các doanh nghiệp này một cách có hiệu quả. Giải quyết dứt điểm tình trạng đầu tư dàn trải, ngoài ngành, lĩnh vực kinh doanh chính thông qua việc thoái vốn, bảo đảm các tập đoàn kinh tế, tổng công ty nhà nước, DNNN tập trung vào lĩnh vực kinh doanh chính; tiết kiệm chi phí, nâng cao chất lượng hàng hóa, dịch vụ, uy tín và thương hiệu trên thị trường.

Hoàn thiện các chiến lược, kế hoạch, chương trình hành động cơ cấu lại các tập đoàn, tổng công ty: Xây dựng kế hoạch 5 năm, hằng năm đối với các hình thức sắp xếp lại, chuyển đổi sở hữu trên cơ sở bám sát các quy định tại Quyết định số 22/2021/QĐ-TTg ngày 02 tháng 7 năm 2021 của Thủ tướng Chính phủ về tiêu chí phân loại DNNN, doanh nghiệp có vốn nhà nước thực hiện chuyển đổi sở hữu, sắp xếp lại, thoái vốn giai đoạn 2021-2025 và các quy định khác có liên quan. Xác định lộ trình phù hợp để cổ phần hóa DNNN và thoái vốn nhà nước tại doanh nghiệp và thực hiện nghiêm quy định về đăng ký giao dịch, niêm yết trên thị trường chứng khoán, bảo đảm công khai, minh bạch, hiệu quả, đánh giá chính xác, xác định đầy đủ giá trị doanh nghiệp, bao gồm cả các nguồn lực về vốn, đất đai, thương hiệu; không làm mất thương hiệu, bản sắc doanh nghiệp, không để thất thoát vốn, tài sản nhà nước.

Thí điểm lựa chọn một số doanh nghiệp sau cổ phần hóa có đủ điều kiện, có quy mô hợp lý để đăng ký giao dịch, niêm yết trên thị trường chứng khoán khu vực và thế giới. Rà soát, đánh giá làm rõ thực trạng của từng doanh nghiệp, dự án đầu tư thua lỗ, kém hiệu quả để có phương án xử lý kịp thời, giảm thiểu tối đa tổn thất cho Nhà nước và xã hội. Tạo cơ chế để doanh nghiệp chủ động, tự chủ trong xử lý dự án; Nhà nước sử dụng nguồn lực theo quy định của pháp luật để hỗ trợ việc giải thể, phá sản doanh nghiệp do Nhà nước nắm giữ 100% vốn điều lệ gắn với trách nhiệm, nghĩa vụ của chủ sở hữu nhà nước.

Hai là, tiếp tục hoàn thiện thể chế, chính sách đối với hệ thống doanh nghiệp nhà nước và cơ cấu lại doanh nghiệp nhà nước: Tập trung rà soát, sửa đổi đồng bộ các quy định pháp luật điều chỉnh hoạt động của doanh nghiệp nhà nước: Xây dựng cơ chế giám sát hiệu quả hơn theo phương thức lựa chọn thuê công ty kiểm toán lớn thực hiện giám sát, đánh giá hiệu quả hoạt động tổng thể thay vì tính riêng từng hoạt động, dự án cụ thể.  Nghiên cứu cơ chế chính sách tiền lương gắn với năng suất lao động và hiệu quả kinh doanh; nghiên cứu, xây dựng cơ chế chính sách quản lý và phát triển riêng đối với một số tập đoàn kinh tế, tổng công ty lớn… Hoàn thiện cơ chế đầu tư, sử dụng vốn nhà nước:

Thúc đẩy thông qua Luật quản lý và đầu tư vốn nhà nước vào doanh nghiệp. Tiếp tục hoàn thiện cơ chế, thể chế quản lý về đầu tư, sử dụng vốn và tài sản Nhà nước; về tổ chức thực hiện chức năng của chủ sở hữu đối với tập đoàn kinh tế, tổng công ty nhà nước.

Rà soát, sửa đổi các quy định tại Luật Đấu thầu, Luật Đất đai… và các văn bản pháp luật khác có liên quan: Khắc phục vướng mắc, khó khăn phát sinh trong cơ cấu lại DNNN, đầu tư, quản lý vốn nhà nước tại doanh nghiệp để đáp ứng tốt hơn các yêu cầu thực tiễn. Ban hành quy định về xử lý đất đai đối với doanh nghiệp quản lý nhiều đất đai ở những vị trí có lợi thế thương mại cao. Hoàn thiện quy định về việc Nhà nước đặt hàng, lựa chọn cạnh tranh DNNN tham gia thực hiện nhiệm vụ chính trị – xã hội, bảo đảm công khai, xác định rõ, đầy đủ chi phí, giá thành, trách nhiệm, quyền lợi của Nhà nước, doanh nghiệp theo nguyên tắc không làm giảm hiệu quả kinh doanh của DNNN.

Hoàn thiện cơ chế, chính sách để thúc đẩy sự phối hợp, hợp tác giữa các DNNN và giữa DNNN với các doanh nghiệp thuộc các thành phần kinh tế khác; đổi mới quản trị doanh nghiệp trong các DNNN theo nguyên tắc, chuẩn mực quốc tế; đổi mới cơ chế tiền lương, tiền thưởng, thù lao của người lao động, người quản lý, điều hành DNNN hợp lý, có tính cạnh tranh cao gắn với năng suất lao động và hiệu quả sản xuất kinh doanh.  Hoàn thiện thể chế, khung khổ pháp lý, cơ chế, chính sách, về quy định để mở rộng thêm các phương thức thoái vốn khác như đấu giá thông thường, hoặc bán cả lô vốn nhà nước tại công ty đại chúng niêm yết nhưng không thấp hơn biên độ giá giao dịch tại thời điểm bán; quy định về định giá khởi điểm đối với phần vốn nhà nước trước khi tổ chức bán theo phương thức giao dịch khớp lệnh trên sàn niêm yết. Thực hiện các quy định mới, đặc biệt là việc cho phép nhà đầu tư nước ngoài được sở hữu vốn điều lệ không hạn chế trong doanh nghiệp Việt Nam.

Ba là, tăng cường đổi mới quản trị doanh nghiệp: Tiếp tục thúc đẩy việc tách biệt chức năng sở hữu DNNN với chức năng quản lý nhà nước: Nâng cao hiệu quả hoạt động của hệ thống quản trị, năng lực, phẩm chất của đội ngũ cán bộ quản lý. Tăng cường chất lượng công tác quản trị doanh nghiệp, điều chỉnh phương thức quản trị doanh nghiệp tiếp cận “mô hình quản trị tốt” theo thông lệ quốc tế. Hình thành đội ngũ quản lý DNNN chuyên nghiệp, có trình độ cao; lành mạnh hóa tài chính, nâng cao trình độ công nghệ, năng lực đổi mới sáng tạo, quản trị hiện đại theo chuẩn mực quốc tế.

Phát huy vai trò dẫn dắt của DNNN trong việc hình thành và mở rộng các chuỗi sản xuất, cung ứng và chuỗi giá trị, nhất là trong ngành, lĩnh vực Nhà nước cần nắm giữ. Tối ưu hóa các nguồn lực về vốn, đất đai, thương hiệu, truyền thống, lịch sử… tại doanh nghiệp; quản lý chặt chẽ vốn, tài sản nhà nước, tài sản doanh nghiệp theo đúng quy định của pháp luật. Thiết lập hệ thống quản trị, kiểm soát nội bộ có hiệu quả trong việc phòng ngừa, phát hiện, ngăn chặn các hành vi vi phạm pháp luật, xung đột lợi ích. (vi) Thực hiện nghiêm trách nhiệm giải trình của người quản lý doanh nghiệp, người đại diện vốn nhà nước tại các tập đoàn kinh tế, tổng công ty định hướng xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam – Thực tiễn Tổng Công ty Hàng không Việt Nam – Vietnam Airlines

Hoàn thiện hệ thống tiêu chí giám sát, đánh giá hiệu quả, xếp loại doanh nghiệp và người quản lý, người đại diện vốn nhà nước. Tiếp tục quán triệt sâu sắc các quan điểm, mục tiêu, nhiệm vụ, giải pháp sắp xếp, đổi mới, phát triển và nâng cao hiệu quả doanh nghiệp nhà nước theo chủ trương đường lối của Đảng: Hoàn thiện, ban hành tiêu chí, danh mục phân loại doanh nghiệp nhà nước và danh mục doanh nghiệp nhà nước thực hiện sắp xếp giai đoạn 2016 – 2020. Tập trung triển khai phương án sắp xếp doanh nghiệp nhà nước giai đoạn 2016 – 2020 theo tiêu chí, danh mục phân loại mới; chủ động xây dựng phương án và tiếp tục thoái vốn nhà nước tại các doanh nghiệp không thuộc diện Nhà nước nắm giữ cổ phần chi phối hoặc không nắm giữ cổ phần, vốn góp.

Nghiêm túc thực hiện cơ chế thị trường và quy định của pháp luật trong cổ phần hoá, không để xảy ra tiêu cực, thất thoát vốn, tài sản. Thực hiện niêm yết các tập đoàn kinh tế, tổng công ty, doanh nghiệp nhà nước quy mô lớn đã cổ phần hóa trên thị trường chứng khoán trong nước và quốc tế. Rà soát, xử lý dứt điểm các doanh nghiệp nhà nước thua lỗ, các dự án đầu tư của doanh nghiệp nhà nước không hiệu quả theo nguyên tắc và cơ chế thị trường; xem xét, thực hiện phá sản doanh nghiệp nhà nước theo quy định của pháp luật về phá sản doanh nghiệp.

Bốn là, nâng cao hiệu lực, hiệu quả quản lý nhà nước đối với DNNN: Tăng cường vai trò của cơ quan quản lý vốn nhà nước tại doanh nghiệp: Cơ quan đại diện phần vốn nhà nước tại các doanh nghiệp đã cổ phần hóa thông qua người đại diện đôn đốc các doanh nghiệp đã cổ phần hóa thực hiện nghiêm quy định về đăng ký lưu ký, đăng ký giao dịch, đăng ký niêm yết trên thị trường chứng khoán theo quy định. Đồng thời nghiêm túc thực hiện chuyển giao quyền đại diện chủ sở hữu phần vốn nhà nước tại các doanh nghiệp đã cổ phần hóa về Tổng công ty Đầu tư và kinh doanh vốn nhà nước theo đúng quy định.

Đối với các cơ quan nhà nước:  Đẩy mạnh phân cấp, phân quyền, cá thể hóa trách nhiệm, trao quyền chủ động hơn cho doanh nghiệp, đề cao trách nhiệm của người đứng đầu trong cơ cấu lại và triển khai các hoạt động sản xuất kinh doanh; tăng cường giám sát, kiểm tra, thanh tra hoạt động của DNNN, kiểm soát quyền lực, kịp thời phát hiện, xử lý nghiêm các hành vi vi phạm.

Tăng cường công tác chỉ đạo, giám sát, kiểm tra, thanh tra việc thực hiện các kế hoạch, phương án cổ phần hóa, thoái vốn nhà nước tại doanh nghiệp đã được phê duyệt.  Gắn trách nhiệm của người đứng đầu các bộ, cơ quan ngang bộ, cơ quan thuộc Chính phủ, Chủ tịch Ủy ban nhân dân các tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương, Chủ tịch Hội đồng thành viên/Chủ tịch công ty/Chủ tịch Hội đồng quản trị/người đại diện phần vốn nhà nước tại các tập đoàn kinh tế, tổng công ty nhà nước với việc phê duyệt và tổ chức thực hiện Đề án cơ cấu lại doanh nghiệp, tổ chức và giám sát việc triển khai thực hiện có hiệu quả Đề án được duyệt. Chủ sở hữu thực hiện đầy đủ trách nhiệm đối với DNNN; bảo đảm quyền tự chủ trong hoạt động của DNNN theo nguyên tắc thị trường.

Siết chặt kỷ luật, kỷ cương trong thực thi quy định pháp luật về công khai, minh bạch thông tin DNNN, bảo đảm mọi đối tượng quan tâm có thể theo dõi, giám sát. Tăng cường trách nhiệm của lãnh đạo các bộ, ngành, địa phương, tập đoàn kinh tế, tổng công ty nhà nước trong việc thực hiện phương án sắp xếp, cổ phần hóa, tái cơ cấu doanh nghiệp đã được phê duyệt.

Người đứng đầu các bộ, cơ quan ngang bộ, cơ quan thuộc Chính phủ, Chủ tịch UBND các tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương chỉ đạo quyết liệt trong việc triển khai công tác cổ phần hóa, thoái vốn, cơ cấu lại DNNN theo kế hoạch đã đề ra, gắn trách nhiệm người đứng đầu với kết quả triển khai công tác cơ cấu lại DNNN, chịu trách nhiệm trước Thủ tướng Chính phủ khi không hoàn thành nhiệm vụ theo kế hoạch được Thủ tướng Chính phủ đã giao. Các bộ, ngành tập trung trình các cấp có thẩm quyền các đề án, chính sách với các nội dung chính gồm các cơ chế chính sách liên quan đến lĩnh vực được phân công; phối hợp với các bộ, ngành, địa phương về tái cơ cấu, cổ phần hóa, thoái vốn đối với các DNNN; thực hiện công tác giám sát, xử lý vướng mắc tài chính của các DN.

Năm là, tăng cường các hoạt động chế tài đối với DNNN.  Nâng cao vai trò lãnh đạo, giám sát của tổ chức đảng tại DNNN: Đảm bảo nguyên tắc Đảng lãnh đạo thông qua tổ chức đảng và đảng viên trong DNNN; lãnh đạo thực hiện nhiệm vụ chính trị và quản lý cán bộ trong DNNN, nhất là các tập đoàn kinh tế và tổng công ty nhà nước. Nâng cao hiệu quả và vai trò lãnh đạo toàn diện của tổ chức đảng tại DNNN trong việc chấp hành chủ trương của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước, xây dựng và thực hiện nhiệm vụ sản xuất kinh doanh, sử dụng, bảo toàn và phát triển vốn nhà nước.

Phân định rõ giữa lãnh đạo quản lý và điều hành doanh nghiệp. Quy định rõ trách nhiệm của cấp ủy, người đứng đầu tổ chức đảng trong DNNN khi để xảy ra thua lỗ, tổn thất trong hoạt động và vi phạm. Tăng cường kiểm tra, thanh tra, giám sát, kiểm toán. Kiên quyết xử lý các doanh nghiệp thua lỗ, các dự án đầu tư không hiệu quả, hiệu quả thấp theo cơ chế thị trường; xem xét, thực hiện phá sản DNNN theo quy định của pháp luật về phá sản doanh nghiệp; có cơ chế kiểm soát phù hợp nguồn vốn mua, bán, sáp nhập doanh nghiệp; thực hiện công khai, minh bạch, đúng pháp luật trong đầu tư, quản lý tài chính, mua sắm, phân phối thu nhập; chỉ đạo thực hiện tốt chính sách đối với người lao động và lao động dôi dư trong DNNN thực hiện sắp xếp, đổi mới. (3) Cơ cấu lại hệ thống giám sát, kiểm soát đối với doanh nghiệp nhà nước:  Xây dựng hệ thống thông tin đầy đủ, tin cậy, cập nhật về các tập đoàn kinh tế nhà nước, tổng công ty và các doanh nghiệp nhà nước. Xây dựng hệ thống tiêu chí và phương pháp giám sát, kiểm soát, đánh giá của chủ sở hữu đối với các DNNN.

Xây dựng đội ngũ cán bộ chuyên trách và chuyên nghiệp đại diện cho Nhà nước thực hiện nhiệm vụ giám sát, kiểm soát.  Xây dựng chế tài đủ mạnh để mọi hoạt động của DNNN, đặc biệt là các tập đoàn kinh tế và các tổng công ty nhà nước phải minh bạch hóa, công khai hóa và kiểm toán tin cậy hàng năm. Bổ sung cơ chế đào thải, các chế tài đủ mạnh dựa trên các tiêu chí minh bạch, rõ ràng để thực hiện chế tài. Xử lý lãnh đạo DNNN, người đại diện phần vốn nhà nước tại doanh nghiệp không nghiêm túc thực hiện, hoặc thực hiện không có kết quả sắp xếp, cổ phần hóa, thoái vốn nhà nước tại doanh nghiệp và nhiệm vụ được giao trong quản lý, điều hành doanh nghiệp; trường hợp thực hiện không đúng quy định, sai mục đích, kém hiệu quả, gây thất thoát, thua lỗ vốn và tài sản của nhà nước, thì phải bồi thường và hoàn toàn chịu trách nhiệm trước pháp luật. Gắn kết quả của việc thực hiện tái cơ cấu DNNN với người đứng đầu, tiếp tục đổi mới công tác bố trí bổ nhiệm, miễn nhiệm đối với người đứng đầu DNNN.

Sáu là, mở rộng thị trường. Có chiến lược, chương trình, kế hoạch phát triển thị trường đồng hành với vấn đề cơ cấu lại doanh nghiệp. Đối với thị trường truyền cần duy trì, phát triển. Đối với thị trường mới cần có những bước đi phù hợp với yêu cầu của kỷ nguyên mới. Với thị trường như Nam Mỹ, Châu Phi cần có những chương trình hành động. Việc Việt Nam trở thành một trong những quốc gia sáng lập nên CPTPP tạo cơ hội lớn cho việc mở rộng hợp tác kinh tế với các nước Nam Mỹ. Với vai trò, vị thế của hãng hàng không quốc gia, việc mở ra các đường bay đến Nam Mỹ vừa như một đòi hỏi, vừa như một lợi thế để Tổng Công ty Hàng không Việt Nam mở các đường bay đến Nam Mỹ.

Đối với thị trường Châu Phi, việc Việt Nam có quan hệ truyền thống, lâu đời và tốt đẹp với Algeria và Ma-rốc cũng như có quan hệ tốt với Nam Phi trong quan hệ chung với BRICS tạo điều kiện cho Việt Nam có nhiều cơ hội mở ra các quan hệ kinh tế xã hội với các nước Châu Phi. Như là hệ quả, hãng hàng không quốc gia – Tổng Công ty Hàng không Việt Nam có nhiều cơ hội và yêu cầu mở ra các đường bay đến các quốc gia Châu Phi.

Bảy là, tăng cường chuyển đổi số, chuyển đổi xanh, chuyển đổi năng lượng, tạo lập kinh tế tuần hoàn… Hình thành chương trình chuyển đổi số, chuyển đổi xanh, chuyển đổi năng lượng, kinh tế tuần hoàn theo định hướng phát thải ròng bằng zero vào năm 2050 theo tinh thần cam kết của Việt Nam. Đặc biệt, chuyển đổi số trong bối cảnh hướng đến mục tiêu 30% là kinh tế số vào năm 2030.  Đồng thời ứng dụng các thành tựu của cách mạng công nghiệp 4.0 vào các chương trình hành động của doanh nghiệp. Cần tập trung nắm bắt, tiếp cận và sử dụng những công nghệ của cuộc cách mạng công nghiệp 4.0 như trí tuệ nhân tạo, số hóa, quản lý hệ thống số… Hơn nữa, phải có chiến lược chuyển đổi xanh, chuyển đổi năng lượng trong ngành hàng mà Tổng công ty là điều kiện then chốt trong việc chuyển đổi thành công.

Tám là, tăng cường nguồn nhân lực, đặc biệt là nguồn nhân lực chất lượng cao.  Coi trọng vấn đề nguồn nhân lực trong quá trình cơ cấu lại, phát triển doanh nghiệp, nhất là doanh nghiệp có tính toàn cầu như Tổng Công ty Hàng không Việt Nam. Đặc biệt là nguồn nhân lực chất lượng cao là yêu cầu cấp bách mà Tổng công ty hàng không phải đáp ứng để có thể cạnh tranh, đứng vững trên thị trường quốc tế. Tập trung tuyển, dụng, đào tạo, đào tạo lại đội ngũ nhân viên của Tổng Công ty. Có những liệu pháp kích thích để thu hút nguồn nhân lực chất lượng cao để đảm bảo cạnh tranh được không chỉ thị trường trong nước mà còn cả thị trường quốc tế. Đặc biệt, là ngành kinh doanh tiếp cận với những công nghệ, kỹ nghệ mới nhất, tốt nhất, Tổng Công ty Hàng không cần có chiến lược thu hút nhân tài vào ngành và Tổng công ty. Với Tổng Công ty Hàng không Việt Nam, đây là một trong những đòi hỏi sống còn để đảm bảo được khả năng cạnh tranh trên thị trường quốc tế.

Tóm lại, cơ cấu lại doanh nghiệp nhà nước theo hướng tăng cường chất lượng tăng trưởng; tăng cường đổi mới quản trị; tiếp cận công nghệ mới; thu hút nguồn lực chất lượng cao; đổi mới quan lý nhà nước đối với doanh nghiệp nhà nước và mở rộng thị trường là những đòi hỏi và giải pháp quan trọng đối với phát triển doanh nghiệp nhà nước nói chung và Tổng Công ty Hàng không Việt Nam nói riêng để doanh nghiệp nhà nước của Việt Nam có được năng lực cạnh tranh, giữ vững được thị trường trong nước và vươn ra thị trường quốc tế. Cùng với đất nước, với các thành phần doanh nghiệp khác, doanh nghiệp Việt Nam thực sự trở thành một bộ phận cấu thành của kinh tế nhà nước và đáp ứng được vai trò chủ đạo, hướng tới đưa đất nước trở thành nước phát triển, có thu nhập cao vào năm 2045.

Spirit Vietnam Airlines
Share bài viết:

Trả lời

Email của bạn sẽ không được hiển thị công khai. Các trường bắt buộc được đánh dấu *

Chào mừng trở lại!

Đăng nhập vào tài khoản của bạn dưới đây

Lấy lại mật khẩu của bạn

Vui lòng nhập tên người dùng hoặc địa chỉ email để đặt lại mật khẩu của bạn.