[Đọc sách phong cách VNA] Blueprint của Robert Plomin

Cuốn sách Blueprint là khởi đầu cho kỷ nguyên mới về công nghệ gen người được cho rằng sẽ giải quyết câu đố muôn thuở: là bẩm sinh hay do nuôi dưỡng.

BÀI VIẾT LIÊN QUAN

Chúng ta sẽ sớm đủ khả năng nhận ra việc một đứa trẻ sơ sinh – không biết chừng chính là con bạn – có nguy cơ bị mắc chứng trầm cảm, rối loạn lo âu và tâm thần phân liệt trong suốt cuộc đời của chúng? Chúng ta sẽ biết được xác suất con cái của mình gặp khó khăn trong việc học đọc, trở nên béo phì và có xu hướng mắc chứng Alzheimer trong những năm tới. Liệu đó có phải là tin tốt hay không?

Robert Plomin nghĩ vậy. Trong Blueprint, ông lập luận rằng những hiểu biết chuyên sâu dạng này sẽ giúp chúng ta có cái nhìn khoan dung hơn dành cho những người thừa cân hoặc dễ bị trầm cảm; Điều này cũng giúp chúng ta hỗ trợ con cái tốt hơn cũng như lên kế hoạch cho cuộc đời mình. Ông cũng hài lòng với việc khám phá ra phần lớn những gì chúng ta cho rằng thuộc về phạm trù nuôi dưỡng – môi trường chăm lo, động viên mà chúng ta gầy dựng cho con cái – nhìn chung không ảnh hưởng đến sự phát triển của con em chúng ta. Plomin giải thích rằng tương tự như sự dưỡng dục của gia đình, môi trường học đường cũng không ảnh hưởng đến việc chúng ta trở nên tử tế hay xấu tính, vui vẻ hay sầu não, giàu có hay nghèo nàn, và điều này tạo ra nhiều sự bình đẳng về mặt cơ hội hơn là trường hợp ngược lại. Thứ duy nhất có khả năng tác động đến tính cách của chúng ta cũng như nhiều mặt khác chính là DNA mà ta được thừa hưởng, và đây là những sự kiện mang tính cơ hội không một ai có thể kiểm soát được.

Đây chắc chắn là tin tốt nếu nhờ đó mà tri thức được đề cao hơn sự thiếu hiểu biết và tự ảo tưởng. Nếu các bậc cha mẹ đang lãng phí thời gian để kể những câu chuyện cổ tích cho con trước giờ ngủ khi chúng thực sự không muốn nghe, hoặc lãng phí tiền của họ vào học phí tại các trường tư thục đắt tiền, đây quả thực là một điều hữu ích nên được tiếp thu. Tôi không đủ khả năng để chất vấn về khoa học, và Plomin đã có 45 năm nghiên cứu trong lĩnh vực di truyền học nhân cách. Ông là người tiên phong trong việc nghiên cứu các cặp song sinh cùng trứng (với DNA giống nhau) lớn lên trong các gia đình khác nhau đồng thời so sánh với các cặp con nuôi và con ruột chung sống trong cùng một gia đình (không có sự chồng lợp trong AND (overlapping gene) của họ ngoài 99% mà bất kỳ ai cũng có). Bằng những nghiên cứu kể trên, không lạ gì khi chủ đề này đã lôi kéo hàng ngàn người tham gia và kéo dài trong nhiều thập kỷ, Plomin cùng các cộng sự đã tiến hành kiểm nghiệm sự đóng góp tương đối giữa gen và môi trường, hay nói cách khác là giữa bẩm sinh và nuôi dưỡng, trong việc hình thành nhân cách con người. Gen luôn giành phần thắng trong mọi trường hợp.

Plomin đề cập đến cuộc cách mạng công nghệ gen đang diễn ra mà không nghi ngờ gì nữa chắc chắn sẽ làm biến đổi cuộc đời mỗi người chúng ta cũng như toàn xã hội. Tuy nhiên ta cũng cần cảnh giác đôi chút về việc di truyền học đang bị lạm dụng một cách đáng lo ngại. Thêm nữa là tình trạng đói khát dữ liệu cá nhân của các “chúa tể bóng đêm kỹ thuật số” Facebook hay Google khiến những mối quan ngại này càng trở nên đáng báo động. Đó là chưa kể đến việc các nhà tuyển dụng tiềm năng, công ty bảo hiểm và các tổ chức tương tự vào cuộc. Những ai cho rằng xã hội của chúng ta có khả năng kiểm soát thời đại công nghệ gen người lên ngôi mà không để xảy ra hậu quả tiêu cực nào, đó hẳn phải là một người quá sức cứng đầu hoặc lạc quan hết thuốc chữa. Plomin đã tự mô tả bản thân là cả hai loại người đó. (Tôi thì lại có một cái nhìn ảm đạm hơn về thế giới mà chúng ta đang sống).

alt text
Blueprint của Robert Plomin – DNA ảnh hưởng đến tính cách của chúng ta như thế nào?

Bộ gen người hoàn chỉnh lần đầu được tìm ra năm 2004. Đó cũng chính là chuỗi gồm 6 tỷ nucleotide cơ sở đầu tiên được biết đến đã cấu thành toàn bộ DNA của một cá thể đơn lẻ. Hàng trăm nhà khoa học đã tiến hành nghiên cứu trong hơn một thập kỷ với chi phí hơn 2 tỷ bảng để cho ra được kết quả này; ngày nay, chỉ tốn vỏn vẹn một ngày và chưa đến 1.000 bảng để giải mã một bộ gen. Sự thay đổi này đã dẫn đến một vấn đề khác: hiểu biết của chúng ta về cách DNA ảnh hưởng đến tính cách, sinh lý và hành vi.

Hiện tại chúng ta đều đã biết rằng sự ảnh hưởng do di truyền đối với tính cách phát sinh từ hàng nghìn biến thể nhỏ trong DNA chứ không phải chỉ một hoặc một vài gen đơn lẻ. Vô số sự khác biệt này làm cho mỗi người chúng ta trở nên độc nhất về mặt di truyền – trừ khi, giống như tôi, bạn là một cá thể sinh đôi cùng trứng – và loại bỏ mọi khả năng chỉnh sửa gen để cho ra đời những đứa trẻ được thiết kế với những tính cách đặc thù. Các biến thể ADN nhỏ bé này được gọi là “đa hình đơn nucleotide” (single nucleotide polymorphisms) hoặc SNPs, được phát âm là “snips”. Chúng ta hiện chỉ có chút ý tưởng về cách thức mà các SNP này gây ra những chuyển đổi trong não bộ và hành vi, nhưng tất cả gộp lại cũng chỉ định hình 50% tính cách của chúng ta – phần còn lại là kết quả của “các sự kiện phi hệ thống, cá biệt, ngẫu nhiên không gây ảnh hưởng lâu dài”. Các nhà khoa học giờ đây đã có thể xem xét tất cả các SNP có mối liên hệ với một đặc điểm cụ thể của người và lấy được “điểm số đa hình” (polygenic score) của chúng, cho thấy khả năng chúng ta mắc phải chứng trầm cảm, rối loạn lo âu, tâm thần phân liệt hoặc béo phì.
Một khi bị xem như những hội chứng rối loạn, các chứng bệnh này được cho là các điểm giới hạn của phân phối chuẩn (phân phối Gauss), với cùng một bộ gen chịu trách nhiệm quy định những chức năng đối lập nhau – chẳng hạn như có khả năng đọc hoặc không có khả năng đọc , sự bình tĩnh cũng như sự lo lắng. Điểm số đa hình cho chúng ta biết tỉ lệ mắc phải các hội chứng kể trên dựa trên biểu đồ phân phối này. Hiện tại, khả năng dự đoán vẫn còn bị giới hạn: điểm số đa hình chỉ chiếm 1% trong phần lớn phương sai dân số về mặt tính cách, với 11% cho thành tích học tập, 7% cho trí thông minh và 7% cho nguy cơ mắc chứng tâm thần phân liệt. Tuy nhiên, khi kích thước mẫu tăng lên, những điểm số này sẽ tiến một cách dứt khoát đến mốc 50% độ biến thiên phát sinh từ DNA của chúng ta.

“Phương sai dân số” là một mệnh đề quan trọng. Đối với một cá nhân – ví dụ con bạn – điểm số đa hình của chúng chỉ đơn giản là cung cấp xác suất chứ không hẳn là một kết quả xác định cho các đặc điểm tính cách và những thành tựu mà chúng có thể đạt được trong tương lai. Điểm số đa hình của Plomin cho thấy ông thuộc bách phân vị 85th trong số những người có khả năng mắc chứng tâm thần phân liệt, nhưng ông không biểu lộ bất kỳ triệu chứng nào, trong khi điểm số thành tựu giáo dục của anh ta là 94%, có vẻ thích hợp cho một giáo sư tại trường King’s College London. Vì vậy, cùng với sự ảnh hưởng từ việc nuôi dưỡng: hiệu quả trung bình trên toàn bộ dân số có thể gần bằng không, nhưng biết đâu được việc kể chuyện trước khi đi ngủ thực chất có tạo ra sự khác biệt đối với con đường học vấn của con bạn cũng như tinh thần tương thân tương ái của chúng thì sao. Lời khuyên của tôi là hãy tận dụng cơ hội đó, trong khi Plomin có vẻ là kiểu người “thuận theo tự nhiên” (laissez-faire) hơn: hãy để con bạn tự thích nghi với bộ gen của chúng, nắm bắt những cơ hội mà chúng có được sao cho phù hợp về mặt di truyền (có thể là thú vui nghe kể chuyện).

Dù ngả mũ kính phục Plomin với tư cách là một nhà tâm lý học và di truyền học, nhưng tôi cho rằng phương diện xã hội học của ông còn chút thiếu sót, thực chất là hơi có vấn đề. Thay vì phản đối di truyền học nhằm tạo ra sự bình đẳng về mặt cơ hội, Plomin lại cho rằng “sự di truyền có thể được xem như là một thước đo của cơ hội và chế độ đãi ngộ nhân tài (meritocracy )”. Làm sao có thể thế được? Tôi sẽ chẳng bao giờ có được cơ hội ngang bằng trong việc trở thành vận động viên chạy nước rút bởi lẽ gen của tôi không cung cấp cho tôi đủ các sợi co rút trong cơ bắp, và những ai sở hữu các gen ức chế khả năng đọc sẽ không bao giờ tận hưởng được sự thích thú mà tôi đã nhận được từ văn học. Plomin viết rằng “cơ hội là thứ mà ta giành được, không phải thứ được biếu không” và giáo dục nghĩa là “trẻ em có thể tìm ra những gì chúng thích và những gì chúng làm tốt, tại nơi mà chúng tìm ra bản chất di truyền của mình”. Nhưng làm thế nào một đứa trẻ được điểm số đa hình ban tặng cho một tài năng hiếm có về âm nhạc tự nhận ra điều đó tại một vùng nghèo đói nơi mà môn âm nhạc đã bị loại khỏi chương trình giảng dạy? Khi viết về sự ảnh hưởng không đáng kể của môi trường gia đình, Plomin viết chính xác rằng sự bỏ bê và lạm dụng có thể có thể gây ra tác động vô cùng xấu đến sự phát triển cảm xúc và nhận thức của trẻ. Nhưng ông mô tả những điều này là “sự kiện hiếm khi xảy ra”, và có vẻ như không hề hay rằng vấn đề bỏ bê và lạm dụng, cũng như trầm cảm và lo lắng, cũng là những biến số liên tục, rất thường xuyên xuất hiện và dễ dàng bị bỏ qua.

Điều mà tôi đồng ý là “Ông thần “gen” đã được triệu hồi ra khỏi chai và, dù cố gắng đến đâu, chúng tôi cũng không thể đưa nó trở vào lại được”. Tôi hoan nghênh Plomin cho những thành tựu khoa học của riêng ông, đã mở hướng tiếp cận cho môn khoa học mới này, và thảo luận về những tác động tiềm năng của nó đối với xã hội. Tôi nghĩ ông ta thật may mắn làm sao khi có thể lạc quan như vậy: còn các gen của tôi lại đang kể cho tôi một câu chuyện hơi khác về kỷ nguyên mới của công nghệ gen người.

Share bài viết:

Trả lời

Email của bạn sẽ không được hiển thị công khai. Các trường bắt buộc được đánh dấu *

Chào mừng trở lại!

Đăng nhập vào tài khoản của bạn dưới đây

Lấy lại mật khẩu của bạn

Vui lòng nhập tên người dùng hoặc địa chỉ email để đặt lại mật khẩu của bạn.