Vấn nạn này được thúc đẩy bởi những cám dỗ vật chất, chủ nghĩa cá nhân và lợi ích nhóm…, đang âm thầm ăn mòn lý tưởng, làm suy đồi đạo đức của một bộ phận đảng viên, tạo môi trường phát triển cho hiện tượng “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa”, dẫn đến nguy cơ suy giảm sức chiến đấu và vai trò lãnh đạo của các tổ chức Đảng. Do đó, việc tìm kiếm các giải pháp khắc phục vấn đề này là nhiệm vụ vừa có tính cấp bách, vừa lâu dài.

Trước những ẩn họa khôn lường bắt nguồn từ sự suy thoái tư tưởng chính trị, đạo đức lối sống, cần ngay những “hồi chuông cảnh tỉnh”, những “hàng rào kỷ luật” của Đảng để nhắc nhở, răn đe và gìn giữ những phẩm chất cách mạng của người đảng viên, tiếp tục giữ vững vai trò nêu gương của đảng viên đối với quần chúng nhân dân. Trong giai đoạn mới, để làm tốt công tác xây dựng, chỉnh đốn Đảng, việc tìm ra những giải pháp căn cơ cho vấn đề này là nhiệm vụ cấp bách hơn bao giờ hết. Từ phạm vi các tổ chức Đảng và đảng viên, có thể chủ động đẩy mạnh thực thi ngay một số biện pháp sau:
Một là, đối với công tác đánh giá chất lượng đảng viên, cần nghiên cứu xây dựng hệ thống tiêu chí đánh giá hai chiều đối với đảng viên và đảng viên giữ chức vụ lãnh đạo, giữa cán bộ lãnh đạo đơn vị và người lao động; Xây dựng và áp dụng thống nhất Bảng chấm điểm hàng tháng sử dụng các tiêu chí có thể lượng hóa để đánh giá mức độ tham gia và chất lượng hoạt động của mỗi đảng viên trong chi bộ; Tin học hóa hệ thống biểu mẫu đánh giá để tiết kiệm thời gian và nâng cao tính khoa học, hiệu quả. Bên cạnh việc nâng cao trách nhiệm của lãnh đạo trong việc đánh giá cán bộ, đảng viên dưới quyền, cần có cơ chế để người lao động nhận xét, góp ý đối với chất lượng chỉ đạo, điều hành, quản lý của cán bộ lãnh đạo. Hệ thống đánh giá hai chiều tạo ra động lực phấn đấu, tự hoàn thiện trong tổ chức bộ máy từ người lao động đến cán bộ, đảng viên, người đứng đầu; hạn chế những nhận xét xuôi chiều, phiến diện. Tuy nhiên, hệ thống “đánh giá chéo” trên nền tảng số đặt ra yêu cầu về tính bảo mật cao nhằm đảm bảo môi trường tự do và an toàn cho người lao động được thể hiện tín nhiệm đối với cấp trên, được thẳng thắn đưa ra ý kiến góp ý mà không lo ngại bị trù dập, cô lập. Do đó, tổ chức Đảng phải đảm bảo nguyên tắc dân chủ thực sự và làm tốt công tác an ninh thông tin, bảo vệ chính trị nội bộ.
Hai là, công tác kiểm tra, giám sát (KT,GS) trong chi bộ cần đi vào thực chất, tránh hình thức bằng việc thực hiện nghiêm túc quy định, bám sát điều kiện thực tế và các vấn đề cụ thể tại đơn vị mình. Sau mỗi cuộc KT,GS phải có những đánh giá chi tiết, sát thực, không chung chung đại khái, không sao chép, lặp lại; Phải rút ra được những hạn chế, nguyên nhân và cách khắc phục tại chỗ. Những khuyết điểm qua mỗi đợt KT,GS phải được giải quyết triệt để, không còn là hạn chế ở kỳ đánh giá tiếp theo. Có thể xem xét đổi mới công tác KT,GS theo hướng: đối với các hoạt động KT,GS cấp chi bộ, định kỳ thực hiện kiểm tra chéo giữa các chi bộ đồng cấp trong một Đảng bộ thay vì chỉ giới hạn trong nội bộ mỗi chi bộ. Điều đó vừa đặt các chi bộ vào cuộc KT,GS khách quan từ bên ngoài để duy trì nề nếp nghiêm túc hơn, vừa tạo cơ hội cho các chi bộ học hỏi lẫn nhau, rút kinh nghiệm trong quá trình thực hiện công tác KT,GS ở đơn vị mình. Ở cấp độ đảng viên, các báo cáo KT,GS của đảng viên phải bắt nguồn và bám sát vào tình hình thực tế trong lĩnh vực mà đảng viên được phân công phụ trách. Từ đó, sinh hoạt chi bộ và hoạt động KT,GS mới phát huy được hiệu lực, hiệu quả trong việc thực hiện nhiệm vụ chính trị trọng tâm của đơn vị và giảm thiểu tính hình thức.
Ba là, đối với công tác phát triển Đảng, cần chú trọng đi vào chiều sâu, coi trọng chất lượng, không chạy theo số lượng. Bằng cách xây dựng hệ thống tiêu chí đánh giá toàn diện, minh bạch, chi bộ lựa chọn nguồn kết nạp Đảng chú trọng vào phẩm chất và năng lực, lựa chọn đúng người kiên định với lý tưởng của Đảng, có đạo đức cách mạng, có ý chí phấn đấu. Các chi bộ lấy chỉ tiêu chất lượng đảng viên làm tiêu chí xây dựng kế hoạch phát triển Đảng thay cho chỉ tiêu số lượng đảng viên như ở nhiều nơi đang thực hiện hiện nay. Việc đánh giá và khảo sát tín nhiệm về đối tượng Đảng cần được thực hiện một cách khách quan, công bằng, minh bạch, khuyến khích triển khai trên môi trường số, đảm bảo quyền tự do thể hiện sự tín nhiệm của đảng viên và quần chúng nhân dân.
Bốn là, đối với việc xử lý vấn nạn “tham nhũng thời gian”, về mặt hình thức, cần áp dụng hệ thống chấm công điện tử ở các cơ quan và doanh nghiệp Nhà nước, đi cùng với đó là hệ thống báo cáo thống kê, phân tích tình hình thực hiện kỷ luật lao động. Từ đó, duy trì nề nếp, tính tổ chức và xây dựng văn hóa công sở, văn hóa doanh nghiệp, kiến tạo tác phong công nghiệp làm nền tảng cho cải cách hành chính. Về mặt nội dung, cần xây dựng bảng phân công nhiệm vụ, mô tả công việc, hệ thống tiêu chí đánh giá, chấm điểm chất lượng công việc đối với từng vị trí để quản lý kết quả, tiến độ, hiệu quả thực hiện công việc; Áp dụng hệ thống đánh giá lương điện tử đảm bảo tính minh bạch, khoa học, dựa trên những tiêu chí có thể lượng hóa. Ngoài ra, cần có chính sách khen thưởng, biểu dương kịp thời đối với những trường hợp thực thi công vụ có chất lượng và tiết kiệm thời gian, nguồn lực; Đồng thời kỷ luật nghiêm minh đối với những trường hợp vi phạm kỷ luật lao động, thái độ công vụ kém chuyên nghiệp, thiếu tính tổ chức và chậm trễ trong quy trình công việc.

Năm là, tinh gọn bộ máy một cách thực chất và hiệu quả. Tinh gọn bộ máy là một chủ trương đúng đắn của Đảng và Chính phủ, triển khai trên diện rộng từ Trung ương đến địa phương, trong mọi cơ quan, tổ chức, doanh nghiệp. Tuy nhiên, việc thực hiện ở các nơi trong giai đoạn đầu đạt được kết quả ở những mức độ khác nhau. Để tăng cường tính hiệu quả trong giải pháp tinh gọn bộ máy, cần xây dựng tiêu chí đánh giá, thanh lọc người lao động theo hướng nâng cao yêu cầu về trình độ, kỹ năng, thái độ, đặc biệt là kỹ năng mềm, tư duy dịch vụ và năng lực chuyển đổi số. Đồng thời, cần tăng cường tính khách quan trong quy trình tinh gọn bộ máy. Theo đó, cần có Nhóm hoặc Ban công tác đặc biệt ở mỗi cơ quan, tổ chức, doanh nghiệp thực hiện nhiệm vụ chuyên trách về theo dõi, đánh giá trực tiếp người lao động tại từng vị trí làm việc để đưa ra phương án tối ưu hóa bộ máy độc lập với đề xuất của người đứng đầu các đơn vị, đảm bảo tính khách quan, công bằng, giảm thiểu tình trạng “nể nang”, “thiên vị”. Đặc biệt cần phòng tránh nguy cơ chủ trương tinh gọn bộ máy bị lợi dụng để loại bỏ những người bất đồng chính kiến, để bảo vệ phe cánh, lợi ích nhóm và nhất là nguy cơ giảm biên người làm việc tốt mà giữ lại lao động kém chất lượng.
Sáu là, Thực hiện chuyển đổi số trong các quy trình công việc, khai thác hiệu năng của các công cụ trí tuệ nhân tạo (AI) để tăng năng suất, chất lượng, nâng cao tính minh bạch và rút ngắn thời gian xử lý các giao dịch. Với hệ thống tiếp nhận yêu cầu, phản hồi, xử lý hồ sơ và trả kết quả trực tuyến, mọi “điểm nghẽn” trong quy trình sẽ được phát hiện, tháo gỡ ở từng khâu, từng “điểm chạm” để minh bạch hóa các thủ tục hành chính, nâng cao ý thức trách nhiệm của người thực thi công vụ và quyền giám sát của nhân dân. Bên cạnh đó, cần tăng cường ứng dụng trí tuệ nhân tạo (AI) vào các khâu nhập liệu, xử lý dữ liệu, sàng lọc hồ sơ theo các điều kiện, tiêu chuẩn có sẵn; khai thác hiệu năng của AI trong việc đề xuất các tài liệu tham khảo, những giấy tờ cần bổ sung. Sản phẩm qua khâu sơ loại của AI sẽ đến tay con người tiếp tục kiểm soát, xem xét và thực hiện các bước tiếp theo để đảm bảo tính chính xác, phù hợp với Pháp luật và các quy định liên quan.

Bảy là, Các cơ quan, doanh nghiệp cần đẩy mạnh việc bồi dưỡng kiến thức, huấn luyện kỹ năng, nghiệp vụ đi đôi với đào tạo sử dụng các phương tiện số. Thật vậy, nâng cao chất lượng công vụ phải xuất phát từ yếu tố con người, đồng thời với đó là thực hiện chuyển đổi số toàn diện. Việc học tập phải trở thành văn hóa công sở và là nguồn lực để phát triển tổ chức. Trong công tác Đảng, các chi bộ cần thực hiện đúng quy định về sinh hoạt chuyên đề tối thiểu 1 lần/quý, nội dung chuyên đề bám sát vào các vấn đề cấp bách, những điểm nghẽn trong quy trình, những nội dung mà dư luận quan tâm. Sau những lần học tập chuyên đề, cần triển khai thực hiện áp dụng vào thực tế tại cơ quan, đơn vị để hiện thực hóa các giải pháp, tháo gỡ những nút thắt trong hệ thống. Ngoài ra, học tập không ngừng còn giúp người lao động không bị tụt hậu, làm chủ và dẫn dắt các công cụ AI. Đồng thời, các chương trình học tập trực tuyến còn có ý nghĩa quan trọng trong việc tiết kiệm chi phí đào tạo, chuẩn hóa các công cụ đánh giá; thuận tiện trong việc xây dựng kế hoạch và lựa chọn đối tượng đào tạo, đồng thời nâng cao trình độ chuyển đổi số của người lao động.
Tám là, đảm bảo an ninh thông tin trong bối cảnh AI được sử dụng phổ biến như là thành tựu đột phá của cuộc cách mạng công nghiệp 4.0. Bên cạnh việc phát huy hiệu năng của AI trong công việc, cần thiết phải cụ thể hóa các yêu cầu bảo mật thông tin, dữ liệu và ban hành hướng dẫn sử dụng các ứng dụng AI đối với các cơ quan cơ yếu, lĩnh vực trọng yếu. Song song với việc ứng dụng trí tuệ nhân tạo thay thế một phần lao động thủ công, việc xây dựng “tường lửa” để bảo vệ thông tin trước tính đa diện của các phương tiện số cũng là đòi hỏi cấp thiết trong xã hội số. Vì vậy, các cơ quan, tổ chức, doanh nghiệp cần chú trọng xây dựng hệ thống quy định về những lĩnh vực cho phép AI trợ giúp; phạm vi, mức độ sử dụng kết quả khai thác từ AI; loại dữ liệu được phép làm đầu vào cho AI và những dữ liệu cần bảo mật tuyệt đối khỏi mọi nền tảng và các phương tiện kết nối mở, kèm theo đó là chế tài xử lý đối với những đối tượng cố tình vi phạm quy định, để rò rỉ thông tin bí mật của tổ chức, cá nhân. Đồng thời, gia tăng hiệu lực của hệ thống “hàng rào kỹ thuật” giúp cảnh báo và ngăn chặn những hành vi đe dọa an ninh thông tin của tổ chức.

Chín là, các cơ quan, tổ chức cần chú trọng xây dựng văn hóa công sở, văn hóa doanh nghiệp, xây dựng chuẩn mực đạo đức của đảng viên và các quy tắc ứng xử trên không gian mạng áp dụng đối với toàn thể người lao động. Từ đó, nâng cao ý thức và văn hóa giao tiếp của các cá nhân trên môi trường số để giảm thiểu việc phát tán, lây lan những thông tin xấu độc; ngăn ngừa lộ lọt bí mật công vụ, rò rỉ dữ liệu nhạy cảm, phát ngôn và hành vi thiếu chuẩn mực. Đồng thời tuyên truyền, khuyến khích lan tỏa những cử chỉ văn minh, những hành động tử tế và những thông điệp đúng đắn trên các kênh truyền thông của tổ chức, doanh nghiệp và trong các hoạt động thường nhật… Việc xây dựng văn hóa của tổ chức cần dành sự quan tâm đặc biệt tới thế hệ trẻ, lực lượng lao động mới và là nguồn lực quan trọng trong công cuộc xây dựng xã hội số, kinh tế số. Văn hóa công sở phải hướng tới việc rút ngắn khoảng cách thế hệ, quản lý sự thay đổi trong kỷ nguyên số và có sự điều chỉnh phù hợp đảm bảo tính định hướng của Đảng đối với đội ngũ lao động “Gen Z”, xây dựng văn hóa con người Việt Nam có tính kế thừa, đổi mới, phát triển.

Mặc dù chiến tranh vũ trang không còn là nguy cơ hiện hữu ở đất nước ta, nhưng cuộc chiến chống lại những âm mưu của các thế lực thù địch hòng phá hoại nền tảng tư tưởng của Đảng, chống phá sự ổn định chính trị ở nước ta chưa giây phút nào lắng xuống. Bên cạnh đó, cuộc đấu tranh chống “giặc nội xâm” là vấn nạn tham nhũng, tiêu cực, lãng phí đang ngày càng quyết liệt hơn, đòi hỏi mỗi tổ chức Đảng phải làm trong sạch đội ngũ, mỗi đảng viên phải tự thanh lọc tư tưởng chính trị, đạo đức lối sống để giữ gìn phẩm giá và lý tưởng. Chính vì vậy, ngay từ trong bản thân mỗi đảng viên, trong từng tổ chức cơ sở Đảng cần thực hiện ngay các giải pháp phù hợp để nâng cao “sức đề kháng” của đảng viên và củng cố sức mạnh của các chi bộ. Coi việc giáo dục tư tưởng, xây dựng nhân cách tốt đẹp của đảng viên là “lá chắn” bảo vệ sự ổn định và vững mạnh của các cơ quan, tổ chức, bảo vệ nền tảng tư tưởng của Đảng và xây dựng văn hóa con người Việt Nam tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc trên tiến trình xây dựng và phát triển đất nước trong kỷ nguyên vươn mình./.









