Vị trí, vai trò của DNNN trong thúc đẩy, định hướng phát triển nền kinh tế, bảo đảm định hướng XHCN và xây dựng nền kinh tế độc lập, tự chủ
Kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa là mô hình kinh tế tổng quát ở nước ta trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội. Nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa được xác định là nền kinh tế thị trường hiện đại, hội nhập quốc tế, vận hành đầy đủ, đồng bộ theo các quy luật của kinh tế thị trường; đồng thời, có sự quản lý của Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa do Đảng Cộng sản lãnh đạo, bảo đảm định hướng xã hội chủ nghĩa phù hợp với từng giai đoạn phát triển của đất nước, nhằm mục tiêu “dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh”.
Trong kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam tồn tại nhiều hình thức sở hữu, nhiều thành phần kinh tế. Doanh nghiệp thuộc mọi thành phần kinh tế đều tự chủ, hợp tác, cạnh tranh bình đẳng theo pháp luật. Trong các thành phần kinh tế, vị trí, vai trò của kinh tế nhà nước, doanh nghiệp nhà nước rất quan trọng, được thể hiện:
Thứ nhất, kinh tế nhà nước được xác định có vai trò chủ đạo, cùng với kinh tế tập thể từng bước trở thành nền tảng của nền kinh tế.
Kinh tế nhà nước là công cụ, lực lượng của Nhà nước trong việc quản lý, kiểm soát nền kinh tế. Kinh tế nhà nước là lực lượng chủ đạo trong xây dựng những ngành, lĩnh vực chủ đạo, mũi nhọn có trình độ khoa học kỹ thuật tiên tiến, năng lực công nghệ cao để tăng cường sức cạnh tranh nền kinh tế; có nguồn nhân lực đáp ứng được yêu cầu phát triển, đặc biệt là nguồn nhân lực chất lượng cao.
Kinh tế nhà nước là lực lượng chủ yếu, quan trọng xây dựng và phát triển hệ thống cơ sở vật chất kết cấu hạ tầng cần thiết cho hoạt động kinh doanh của các thành phần kinh tế và phát triển kinh tế – xã hội mà các thành phần khác chưa làm được do đầu tư lớn, không có khả năng sinh lời trong ngắn hạn.
Thứ hai, vai trò chủ đạo của kinh tế nhà nước được xác định là yếu tố bảo đảm định hướng xã hội chủ nghĩa trong phát triển kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa. Kinh tế nhà nước được xác định là lực lượng dẫn dắt các thành phần kinh tế khác theo định hướng xã hội chủ nghĩa.
Kinh tế nhà nước tạo điều kiện, hỗ trợ cho các thành phần kinh tế khác phát triển; là lực lượng quan trọng, nòng cốt trong đảm bảo định hướng xã hội chủ nghĩa, đảm bảo ổn định của nền kinh tế, thị trường, góp phần đảm bảo an sinh xã hội, thực hiện chinh sách xã hội, ngăn chặn, giảm thiểu tác động từ bên ngoài trong quá trình hội nhập…
Kinh tế nhà nước cũng đảm nhận và thực hiện việc sản xuất các hàng hóa công cộng thiết yếu, bảo đảm các nhiệm vụ chính trị – xã hội ở các vùng khó khăn và địa bàn an ninh chiến lược. ; là lực lượng, công cụ vật chất quan trọng để Nhà nước điều tiết kinh tế, thúc đẩy, định hướng phát triển nền kinh tế, ổn định vĩ mô, bảo đảm các cân đối lớn của nền kinh tế, nhất là ở những thời điểm quan trọng (khủng hoảng, chiến tranh, bước ngoặt phát triển) và góp phần thúc đẩy phát triển kinh tế – xã hội.
Thứ ba, kinh tế nhà nước, doanh nghiệp nhà nước là lực lượng quan trọng, nòng cốt trong xây dựng nền kinh tế độc lập, tự chủ, góp phần nâng cao hiệu quả hội nhập và ngăn chặn, giảm thiểu tác động từ bên ngoài trong quá trình hội nhập quốc tế.
Kinh tế nhà nước góp phần giảm tình trạng nền kinh tế bị phụ thuộc vào nước ngoài, tăng tính độc lập, tự chủ của nền kinh tế. Hội nhập quốc tế tạo cơ hội cho các chủ thể, doanh nghiêp nước ngoài thâm nhập vào nền kinh tế, chiếm lĩnh, thao túng thị trường trong nước, làm phá sản những doanh nghiệp trong nước để độc quyền, làm cho nền kinh tế trong nước bị phụ thuộc, bị điều khiển bởi các chủ thể nước ngoài, đặc biệt là các nước lớn, làm giảm tính độc lập, tự chủ của nền kinh tế.
Kinh tế nhà nước, đặc biệt là các doanh nghiệp nhà nước hoạt động hiệu quả, có sức cạnh tranh cao góp phần hạn chế những nguy cơ nêu trên. Hội nhập quốc tế làm cho không gian kinh tế giữa các quốc gia trở nên mờ nhạt, biên giới kinh tế ngày càng trở nên dễ thẩm thấu, các luồng hàng hóa, dịch vụ, vốn… được luân chuyển, thâm nhập giữa các quốc gia dễ dàng hơn với số lượng lớn, tốc độ nhanh và dưới nhiều hình thức khác nhau, đồng tời có sự tham gia của các chủ thể mới vào nền kinh tế, xuất hiện nhiều hoạt động kinh doanh mới, từ đó gây ra tình trạng khó khăn trong việc quản lý, kiểm soát các hoạt động kinh tế, đặt ra những vấn đề phức tạp đối với nhà nước trong việc quản lý,
kiểm soát nền kinh tế. Thông qua công cụ, lực lượng là kinh tế nhà nước, Nhà nước điều tiết, quản lý nền kinh tế, kiểm soát thị trường…theo đúng định hướng, mục tiêu của Nhà nước. Thông qua kinh tế nhà nước xây dựng được một hệ thống dự trữ, điều tiết cung, cầu những hàng hóa, sản phẩm thiết yếu, chiến lược để bảo đảm khả năng độc lập tự chủ, chủ động ứng phó khi có khủng hoảng, can thiệp hoặc nguy cơ đe dọa đến nền kinh tế.
Kinh tế nhà nước cũng góp phần bảo đảm an toàn, bền vững những ngành, lĩnh vực then chốt, huyết mạch của nền kinh tế như tài chính, tiền tệ, ngân hàng, năng lượng, tài nguyên, giao thông vận tải…
Cùng với vai trò chủ đạo của kinh tế nhà nước, các doanh nghiệp nhà nước giữ vị trí then chốt, quan trọng, đặc biệt là trong bối cảnh nền kinh tế Việt Nam hiện nay. Các doanh nghiệp nhà nước sẽ giúp nhà nước kiểm soát các nguồn lực, khai thác ưu thế về thương hiệu, hoạt động đầu tư, thương mại, hệ thống dịch vụ đầu vào, đầu ra, nâng cao khả năng cạnh tranh. Các doanh nghiệp nhà nước là lực lượng, công cụ quan trọng để mở rộng thị trường, nâng cao sức cạnh tranh trong bối cảnh hội nhập quốc tế, giữ vai trò tiên phong đối với quá trình đổi mới khoa học và công nghệ quốc gia…
Doanh nghiệp nhà nước, nhất là các tập đoàn, tổng công ty nhà nước tập trung vào các ngành, lĩnh vực then chốt, thiết yếu, những địa bàn quan trọng và quốc phòng, an ninh. Doanh nghiệp nhà nước tự chủ, kinh doanh theo cơ chế thị trường; tách bạch nhiệm vụ sản xuất kinh doanh và nhiệm vụ chính trị, công ích. Các đơn vị sự nghiệp công được chuyển sang cơ chế tự chủ và thực hiện xã hội hóa lĩnh vực dịch vụ công.
Một số vấn đề thực tiễn đặt ra về đổi mới DNNN trong nền kinh tế thị trường định hướng XHCN ở Việt Nam
Trong thời gian vừa qua, cùng với việc phát triển nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam, các doanh nghiệp nhà nước được đổi mới, phát triển. Hệ thống pháp luật, cơ chế, chính sách tiếp tục được bổ sung, hoàn thiện phù hợp với yêu cầu xây dựng nền kinh tế thị trường hiện đại, định hướng xã hội chủ nghĩa.
Môi trường đầu tư, kinh doanh được cải thiện, thông thoáng, công khai, minh bạch, thuận lợi hơn cho sản xuất kinh doanh. Nền kinh tế nhiều thành phần hình thành và phát triển, các thành phần kinh tế đều có đóng góp tích cực vào phát triển đất nước. Cơ cấu lại doanh nghiệp nhà nước được đẩy mạnh, doanh nghiệp nhà nước được thu gọn, tập trung vào những ngành, lĩnh vực then chốt. Kinh tế nhà nước năm 2010 chiếm 24,185 GDP theo giá hiện hành, đến năm 2022 đã giảm xuống còn 20,53% (giảm 3,65 điểm phần trăm so với năm 2010)(1). Số lượng doanh nghiệp nhà nước đã giảm mạnh, từ hơn 12.000 doanh nghiệp do Nhà nước nắm giữ 100% vốn điều lệ trong giai đoạn đầu đổi mới xuống còn 476 doanh nghiệp thời điểm 01/01/2022, 197 doanh nghiệp do Nhà nước nắm giữ trên 50% vốn điều lệ và 153 doanh nghiệp do Nhà nước nắm giữ dưới 50% vốn điều lệ.
Cơ chế hoạt động của doanh nghiệp nhà nước được đổi mới theo hướng tự chủ kinh doanh, cạnh tranh bình đẳng với doanh nghiệp thuộc các thành phần kinh tế. Từng bước thực hiện việc tách chức năng quản lý nhà nước và đại diện chủ sở hữu vốn nhà nước, thành lập Ủy ban quản lý vốn nhà nước tại doanh nghiệp.
Hiệu quả, năng lực cạnh tranh của một số doanh nghiệp nhà nước được nâng lên. Tổng giá trị vốn chủ sở hữu nhà nước được bảo toàn và phát triển, tỷ lệ doanh nghiệp nhà nước có lãi tăng, một số doanh nghiệp nhà nước yếu kém đã trở lại hoạt động. Hiệu suất sử dụng lao động của doanh nghiệp nhà nước năm 2020 cao hơn các loại hình doanh nghiệp khác. Hiệu suất sinh lợi trên tài sản và trên vốn của khu vực doanh nghiệp nhà nước cao hơn doanh nghiệp ngoài nhà nước (Bảng 1).
So sánh giai đoạn cơ cấu lại DNNN 2016-2019 với giai đoạn cơ cấu lại DNNN 2011- 2015, tổng giá trị tài sản tăng 149%, trang bị tài sản cho người lao động tăng 189%, doanh thu thuần tăng 110%, lợi nhuận trước thuế tăng 114%. Số lượng DNNN có lãi tăng từ 80,2% lên 81,2%. Đặc biệt, trong bối cảnh lạm phát, suy giảm kinh tế trong những năm gần đây, doanh nghiệp nhà nước đã đóng góp quan trọng trong việc bình ổn giá cả, vật tư hàng hóa, góp phần để Nhà nước thực hiện các chính sách vĩ mô, ổn định xã hội, ngăn chặn suy giảm kinh tế…
Bảng 1: Một số chỉ tiêu phản ảnh hiệu quả kinh doanh của DNNN năm 2020
Bảng 1: Một số chỉ tiêu phản ánh hiệu quả kinh doanh của doanh nghiệp nhà nước năm 2020
Doanh nghiệp nhà nước | Doanh nghiệp ngoài nhà nước | Doanh nghiệp FDI | |
Hiệu suất sử dụng lao động (lần) | 18,9 | 17 | 13 |
Hiệu suất sinh lợi trên tài sản ROA (%) | 2,2 | 1,2 | 5,5 |
Hiệu suất sinh lợi trên vốn chủ sở hữu ROE (%) | 10,1 | 3,4 | 14 |
Nguồn: Bộ Kế hoạch và Đầu tư, Sách trắng doanh nghiệp Việt Nam năm 2021
Nguồn: Bộ Kế hoạch và Đầu tư, Sách trắng doanh nghiệp Việt Nam năm 2021
Tuy nhiên, vẫn còn một số hạn chế, bất cập và vấn đề đặt ra đối với doanh nghiệp nhà nước:
- Về vai trò chủ đạo của kinh tế nhà nước, vị trí then chốt của doanh nghiệp nhà nước: Nhận thức, quan điểm của Đảng hiện nay là: trong nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, kinh tế nhà nước được xác định giữ vai trò chủ đạo, doanh nghiệp nhà nước giữ vị trí then chốt, là một lực lượng vật chất quan trọng của kinh tế nhà nước. Tuy nhiên, xung quanh những vấn đề này vẫn còn không ít vấn đề cần phải được tiếp tục làm rõ, như: kinh tế nhà nước giữ vai trò chủ đạo, doanh nghiệp nhà nước giữ vị trí then chốt, nhưng thế nào là chủ đạo, thế nào là then chốt vẫn còn nhiều cách hiểu, nhiều quan điểm khác nhau.
- Một số quy định của pháp luật và cơ chế chính sách đối với doanh nghiệp nhà nước còn thiếu, chưa được ban hành đầy đủ và đồng bộ. Một số cơ chế, chính sách chưa được sửa đổi, bổ sung kịp thời, phù hợp với điều kiện mới. Việc phân công, phân cấp và tổ chức thực hiện các quyền, trách nhiệm, nghĩa vụ của chủ sở hữu nhà nước đối với doanh nghiệp nhà nước mới bước đầu được làm rõ, cơ chế phối hợp giữa các cơ quan trong quản lý doanh nghiệp nhà nước vẫn còn điểm bất cập, hiệu lực còn thấp. Chưa có cơ chế, chế tài và công cụ, tiêu chí kiểm tra, kiểm soát có hiệu quả trong khi trao mạnh quyền tự chủ, tự chịu trách nhiệm cho các doanh nghiệp nhà nước.
- Trong nhiều năm qua doanh nghiệp nhà nước được đầu tư lớn, được hưởng nhiều ưu đãi, nắm giữ những nguồn lực và tài sản lớn, nhưng hiệu quả của một số doanh nghiệp nhà nước chưa tương xứng với nguồn lực nắm giữ. Một số doanh nghiệp nhà nước kinh doanh hiệu quả thấp, kết quả đạt được không tương xứng với tiềm năng và tài sản mà doanh nghiệp nắm giữ, thậm chí thua lỗ, phá sản, thất thoát lớn tài sản nhà nước. Một số cán bộ quản lý doanh nghiệp năng lực yếu, chưa đáp ứng yêu cầu, một số suy thoái về đạo đức, lối sống thậm chí vi phạm pháp luật.
Một số doanh nghiệp nhà nước chưa làm tốt vai trò nòng cốt, mở đường, hướng dẫn, thúc đẩy các thành phần khác phát triển, thúc đẩy liên kết chuỗi giá trị gia tăng; việc tham gia bảo đảm cân đối, ổn định nền kinh tế vĩ mô còn hạn chế; chưa đi đầu trong trong ứng dụng tiến bộ khoa học và công nghệ, đổi mới sáng tạo; việc cơ cấu lại doanh nghiệp nhà nước và thoái vốn nhà nước triển khai chậm, quá trình cổ phần hóa một số doanh nghiêp nhà nước còn có một số khó khăn, vướng mắc về thể chế chậm được giải quyết, nhất là thể chế định giá đất đai, tài sản; trách nhiệm của người quản lý doanh nghiệp nhà nước chưa rõ ràng; công tác cán bộ, chính sách tiền lương còn bất cập, chưa phù hợp với cơ chế thị trường…
– Doanh nghiệp nhà nước còn yếu ở những ngành có ảnh hưởng, quyết định đến việc hỗ trợ nâng cao sức cạnh tranh của nền kinh tế và của khu vực doanh nghiệp Việt Nam.
Một số giải pháp tiếp tục đổi mới, phát triển DNNN trong nền kinh tế thị trường định hướng XHCN ở Việt Nam
Trong thời gian tới, trong bối cảnh tình hình chính trị, kinh tế thế giới thay đổi hết sức phức tạp, thế giới đang đứng trước tình trạng khó khăn, suy thoái về kinh tế. Đất nước ta đã là quốc gia đang phát triển, có thu nhập trung bình thấp, hội nhập sâu rộng vào kinh tế thế giới, tiếp tục phát triển nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa.
Trên cơ sở quan điểm định hướng phát triên kinh tế nhà nước, đổi mới doanh nghiệp nhà nước trong Văn kiện Đại hội XIII của Đảng “Kinh tế nhà nước là công cụ, lực lượng vật chất quan trọng để Nhà nước giữ ổn định kinh tế vĩ mô, định hướng, điều tiết, dẫn dắt thúc đẩy phát triển kinh tế, xã hội, khắc phục các khuyết tật của cơ chế thị trường. Các nguồn lực kinh tế của Nhà nước được sử dụng phù hợp với chiến lược, quy hoạch, kế hoạch phát triển đất nước và cơ bản được phân bổ theo cơ chế thị trường.
Doanh nghiệp nhà nước tập trung vào lĩnh vực then chốt, địa bàn quan trọng, quốc phòng, an ninh; hoạt động theo cơ chế thị trường, quản trị hiện đại theo chuẩn mực quốc tế; lấy hiệu quả kinh tế làm tiêu chí đánh giá chủ yếu, cạnh tranh bình đẳng với doanh nghiệp thuộc các thành phần kinh tế”(1); “Đẩy nhanh việc xử lý nợ, thoái vốn, cổ phần hóa, cơ cấu lại doanh nghiệp nhà nước; thúc đẩy đổi mới, nâng cao trình độ công nghệ, áp dụng chế độ quản trị doanh nghiệp hiện đại để nâng cao hiệu quả, đồng thời kiểm tra, giám sát chặt chẽ hoạt động của doanh nghiệp, không để thất thoát, lãng phí vốn, tài sản nhà nước”(2), để tiếp tục đổi mới, phát triển doanh nghiệp nhà nước trong thời gian tới cần thực hiện đồng bộ một số giải pháp như sau:
Thứ nhất, Nhà nước cần thực hiện tốt vai trò kiến tạo một cách đồng bộ, toàn diện thể chế, chính sách cho việc phát triển các doanh nghiệp nhà nước phù hợp với nguyên tắc thị trường, bảo đảm kiểm soát độc quyền trong nước và nâng cao khả năng cạnh tranh trên thị trường quốc tế. Các cơ chế, chính sách nâng cao hiệu quả hoạt động của doanh nghiệp nhà nước cần được xây dựng, hoàn thiện và tổ chức thực hiện đồng bộ, hiệu quả. Hoàn thiện chính sách sở hữu đối với các doanh nghiệp nhà nước; tiếp tục hoàn thiện cơ quan quản lý, làm đại diện chủ sở hữu nhà nước tại các doanh nghiệp, tập đoàn kinh tế nhà nước.
Hoàn thiện việc giám sát, đánh giá các doanh nghiệp nhà nước; thiết lập hệ thống các tiêu chí đánh giá hiệu quả của doanh nghiệp nhà nước. Việc giám sát và đánh giá các doanh nghiệp nhà nước cần và phải đặt trong kết cấu chặt chẽ của hệ thống giám sát thực hiện chức năng chủ sở hữu nhà nước. Bảo đảm tính minh bạch, công khai của doanh nghiệp nhà nước và trách nhiệm giải trình của người quản lý doanh nghiệp nhà nước và cơ quan đại diện chủ sở hữu vốn nhà nước.
Thứ hai, cần nhận thức đúng vị trí, vai trò của doanh nghiệp nhà nước; tránh khuynh hướng sai lầm coi nhẹ doanh nghiệp nhà nước, muốn cổ phần hóa tràn lan, hoặc khuynh hướng bảo thủ, muốn duy trì, mở rộng, “phình to toàn bộ doanh nghiệp nhà nước mà không muốn nâng cao hiệu quả, tổ chức sắp xếp lại doanh nghiệp nhà nước cho phù hợp với điều kiện, hoàn cảnh mới.
Doanh nghiệp nhà nước được Nhà nước đầu tư, phát triển ở những ngành, lĩnh vực, địa bàn quan trọng về kinh tế, xã hội, an ninh của đất nước (mà các thành phần kinh tế khác không được, không muốn hay không đủ sức đầu tư), làm nòng cốt cho sự phát triển các ngành, lĩnh vực, địa bàn này. Các doanh nghiệp nhà nước phải tự chủ, hoạt động theo cơ chế thị trường, có hiệu quả; nếu Nhà nước giao thực hiện các nhiệm vụ chính trị – xã hội phải được thực hiện theo đơn đặt hàng của Nhà nước.
Khi ngành, lĩnh vực, địa bàn nào không nhất thiết cần phải có doanh nghiệp nhà nước (doanh nghiệp nhà nước đã hoàn thành vai trò đi đầu, thu hút các thành phần kinh tế khác đầu tư vào ngành, lĩnh vực, địa bàn này), thì Nhà nước có thể thoái vốn của mình khỏi doanh nghiệp, cổ phần hóa doanh nghiệp để các thành phân kinh tế khác tham gia, chuyển vốn của Nhà nước đầu tư vào những ngành, lĩnh vực, địa bàn quan trọng khác, thực hiện các chiến lược, mục tiêu mới của Nhà nước.
Thứ ba, đẩy mạnh để hoàn thành việc cơ cấu lại doanh nghiệp nhà nước. Có biện pháp tháo gỡ những khó khăn liên quan đến xác định giá trị quyền sử dụng đất, tài sản cố định, giá trị thương hiệu để đẩy mạnh việc thoái vốn, cổ phần hóa doanh nghiệp nhà nước.
Đẩy nhanh việc xử lý nợ, thoái vốn, cổ phần hóa doanh nghiệp nhà nước hiệu quả, công khai, minh bạch; có cơ chế giám sát, phát hiện, xử lý kịp thời những vi phạm trong quá trình triển khai thực hiện. Hoàn thiện cơ chế sử dụng nguồn thu từ chuyển đổi sở hữu doanh nghiệp, đơn vị sự nghiệp công lập và chuyển nhượng vốn nhà nước.
Đổi mới quan trị doanh nghiệp nhà nước theo các chuẩn mực quốc tế, xây dựng đội ngũ quản lý doanh nghiệp nhà nước chuyên nghiệp, có năng lực và phẩm chất cao; đẩy mạnh ứng dụng tiến bộ khoa học – công nghệ, đổi mới sáng tạo để nâng cao hiệu quả hoạt động, sử dụng vốn, sức cạnh tranh của doanh nghiệp nhà nước.. Có chiến lược phát triển doanh nghiệp nhà nước ở những ngành, lĩnh vực, địa bàn cần phải có doanh nghiệp nhà nước trong từng thời kỳ. Củng cố, phát triển một số tổng công ty, tập đoàn kinh tế nhà nước hoạt động có hiệu quả, có sức cạnh tranh khu vực và thế giới trong một số ngành, lĩnh vực then chốt của nền kinh tế.
Thứ tư, tháo gỡ những khó khăn, vướng mắc trong chính sách để đẩy nhanh việc xử lý nợ, thoái vốn, cổ phần hóa doanh nghiệp nhà nước đã kéo dài nhiều năm chưa thực hiện xong. Thực hiện giải thể, phá sản các doanh nghiệp nhà nước yếu kém, theo quy định của pháp luật và bảo đảm lợi ích cao nhất của Nhà nước, quyền lợi chính đáng của người lao động và nhà đầu tư. Xử lý dứt điểm các dự án thua lỗ, kém hiệu quả bảo đảm nguyên tắc công khai, minh bạch, theo cơ chế thị trường và quy định của pháp luật.
Đồng thời, thực hiện đầy đủ cơ chế tự chủ để doanh nghiệp nhà nước hoàn toàn hoạt động theo cơ chế thị trường như doanh nghiệp của các thành phần kinh tế khác, tách các hoạt động xã hội công ích hay thực hiện các nhiệm vụ Nhà nước giao theo cơ chế riêng khỏi các hoạt động sản xuất kinh doanh thông thường.
Thứ năm, đẩy mạnh cơ cấu lại, đổi mới quản lý, nâng cao hiệu quả sử dụng vốn, tài sản tại các doanh nghiệp nhà nước. Cần sớm hoàn thành việc thoái vốn doanh nghiệp nhà nước đầu tư dàn trải, không hiệu quả vào những lĩnh vực ngoài kinh doanh chính của doanh nghiệp; đẩy mạnh cổ phần hóa doanh nghiệp nhà nước để doanh nghiệp nhà nước tập trung vào những ngành, lĩnh vực, địa bàn quan trọng và quốc phòng, an ninh.
Hoàn thiện tổ chức, cơ chế hoạt động của Ủy ban quản lý vốn Nhà nước tại doanh nghiệp, quan hệ, cơ chế phối hợp giữa Ủy ban với các bộ quản lý ngành để phát huy vai trò của cơ quan thực hiện chức năng chủ sở hữu vốn Nhà nước tại các doanh nghiệp nhà nước.
Doanh nghiệp nhà nước tự chủ, hoạt động theo cơ chế thị trường, bình đẳng với doanh nghiệp thuộc các thành phần kinh tế khác. Đổi mới quản trị doanh nghiệp theo mô hình doanh nghiệp hiện đại trên thế giới, theo các chuẩn mực tiên tiến, đổi mới công nghệ để nâng cao hiệu quả, tính cạnh tranh. Đẩy mạnh chuyển đổi số, ứng dụng công nghệ số trong các doanh nghiệp nhà nước. Thúc đẩy công khai, minh bạch thông tin tài chính, tăng cường trách nhiệm giải trình của doanh nghiệp.
Thứ sáu, xây dựng, phát triển đội ngũ cán bộ doanh nghiệp nhà nước. Tiếp tục thể chế hóa các chủ trương áp dụng cơ chế giao khoán, nhiệm vụ sản xuất kinh doanh gắn với kết quả, hiệu quả quản lý và sử dụng vốn nhà nước trong phạm vi toàn bộ khu vực doanh nghiệp nhà nước; thực hiện giao khoán chi phí tiền lương gắn với nhiệm vụ, điều kiện sản xuất kinh doanh, ngành nghề, tính chất hoạt động của doanh nghiệp.
Thực hiện cơ chế tuyển dụng, thi tuyển cạnh tranh, công khai, minh bạch đối với tất cả các chức danh quản lý, điều hành và các vị trí công việc khác trong doanh nghiệp nhà nước. Tăng cường đào tạo, bồi dưỡng cán bộ quản lý, quản trị doanh nghiệp nhà nước. Đổi mới quy trình xác định nhu cầu đào tạo, bồi dưỡng, xây dựng và thực hiện chương trình, tài liệu đào tạo, bồi dưỡng cán bộ quản lý, quản trị donah nghiệp nhà nước. Tăng cường đào tạo, bồi dưỡng cán bộ quản lý, quản trị doanh nghiệp nhà nước ở nước ngoài.
Thứ bảy, đẩy mạnh việc thực hiện đặt hàng, giao nhiệm vụ cho một số tập đoàn, doanh nghiệp nhà nước có đủ năng lực thực hiện một số nhiệm vụ có tính chiến lược, dẫn dắt quá trình CNH, HĐH gắn với đổi mới mô hình tăng trưởng của nền kinh tế. Định hướng các doanh nghiệp nhà nước tham gia vào chiến lược phát triển kinh tế số, xã hội số, kinh tế xanh, kinh tế tuần hoàn nhằm nâng cao hơn nữa năng suất, chất lượng, hiệu quả và sức cạnh tranh của doanh nghiệp nhà nước.