Doanh nghiệp nhà nước với nhiệm vụ bảo vệ nền tư tưởng của Đảng (Kì 2)

Kỳ 2 – Nội hàm đường lối phát triển kinh tế của Đảng Cộng Sản Việt Nam.

BÀI VIẾT LIÊN QUAN

Đường lối phát triển kinh tế của Đảng Cộng sản Việt Nam trong thời kỳ quá độ lên Chủ nghĩa xã hội là: “Đảng và Nhà nước ta chủ trương thực hiện nhất quán và lâu dài chính sách phát triển nền kinh tế hàng hóa nhiều thành phần vận động theo cơ chế thị trường, có sự quản lý của Nhà nước theo định hướng Xã hội chủ nghĩa”

Nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa của Việt Nam là nền kinh tế thị trường của thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội. Nền kinh tế đó có nhiều hình thức sở hữu, nhiều thành phần kinh tế cùng tồn tại bình đẳng trước pháp luật, cùng phát triển lâu dài, hợp tác và cạnh tranh lành mạnh; trong đó, kinh tế nhà nước giữ vai trò chủ đạo, là công cụ, lực lượng vật chất quan trọng để Nhà nước ổn định kinh tế vĩ mô, định hướng, điều tiết, dẫn dắt, thúc đẩy phát triển kinh tế – xã hội, giữ vững định hướng Xã hội chủ nghĩa

Nền kinh tế thị trường định hướng Xã hội chủ nghĩa là “nền kinh tế thị trường hiện đại”, được điều tiết, vận hành bằng “bàn tay vô hình” của cơ chế thị trường kết hợp với “bàn tay hữu hình” của Nhà nước pháp quyền Xã hội chủ nghĩa, dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản. Chế độ phân phối được thực hiện chủ yếu theo kết quả lao động, hiệu quả kinh tế; đồng thời, theo mức góp vốn cùng các nguồn lực khác và phân phối thông qua hệ thống an sinh xã hội, phúc lợi xã hội. Vấn đề tiến bộ và công bằng xã hội được quan tâm giải quyết ngay trong từng bước đi, từng chính sách và trong suốt quá trình phát triển; chính sách kinh tế luôn thống nhất và gắn chặt với chính sách xã hội. Theo đó, mỗi chính sách kinh tế đều phải hướng tới mục tiêu phát triển xã hội; mỗi chính sách xã hội phải nhằm tạo ra động lực thúc đẩy phát triển kinh tế; khuyến khích làm giàu hợp pháp phải đi đôi với xóa đói, giảm nghèo bền vững, chăm sóc những người có công, người có hoàn cảnh khó khăn.

Nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa của Việt Nam là nền kinh tế thị trường của thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội.

Đường lối phát triển kinh tế của Việt Nam bao gồm những nội hàm cơ bản sau:

1. Là nền Kinh tế hàng hóa nhiều thành phần phát huy tối đa năng lực sản xuất xã hội

Nền kinh tế trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội là nền kinh tế hàng hóa nhiều thành phần, luôn vận động, phát triển theo quy luật quan hệ sản xuất phù hợp với tính chất và trình độ của lực lượng sản xuất. Xuất phát từ thực trạng nền kinh tế quá độ lên Chủ nghĩa xã hội ở nước ta ở trình độ phát triển chưa cao, chưa đồng đều của lực lượng sản xuất mà còn tồn tại khách quan cả chế độ tư hữu với nhiều hình thức sở hữu như: hình thức sở hữu tư nhân của cá thể, của hộ gia đình, của tiểu chủ, của nhà tư bản, của tập đoàn tư bản… và cả chế độ công hữu với các hình thức sở hữu như: sở hữu toàn dân, sở hữu nhà nước, sở hữu tập thể…, đồng thời còn có hình thức sở hữu hỗn hợp đan xen các hình thức sở hữu trong cùng một đơn vị kinh tế. Đó là cơ sở tồn tại của nhiều thành phần kinh tế.

Căn cứ vào chế độ sở hữu với nhiều hình thức sở hữu đan xen, nền kinh tế trong thời kỳ quá độ ở nước ta được phân thành ba thành phần: kinh tế công, kinh tế tư nhân và kinh tế hỗn hợp.

Thành phần kinh tế công bao gồm các doanh nghiệp nhà nước giữ vị trí, vai trò then chốt trong nền kinh tế. Chủ thể của thành phần kinh tế này là Nhà nước (được Nhân dân ủy quyền). Nhà nước thông qua Ủy ban quản lý vốn nhà nước tại doanh nghiệp đầu tư vốn bằng tiền và hiện vật cho các doanh nghiệp nhà nước thông qua hợp đồng tín dụng. Các doanh nghiệp nhà nước tập trung phát triển trong những ngành và lĩnh vực then chốt, thiết yếu; những địa bàn quan trọng và quốc phòng, an ninh; những lĩnh vực mà doanh nghiệp thuộc các thành phần kinh tế khác không đầu tư. Các doanh nghiệp nhà nước hoạt động theo cơ chế thị trường, lấy hiệu quả kinh tế làm tiêu chí đánh giá chủ yếu, tự chủ, tự chịu trách nhiệm và cạnh tranh bình đẳng với các doanh nghiệp thuộc các thành phần kinh tế khác theo quy định của pháp luật. Bảo đảm công khai, minh bạch và trách nhiệm giải trình của doanh nghiệp nhà nước.

Thành phần kinh tế tư nhân là một động lực quan trọng của nền kinh tế. Chủ thể của thành phần kinh tế này là các chủ sở hữu tư nhân như: các hộ kinh doanh cá thể, các hộ tiểu chủ, các chủ tư nhân, các nhà tư bản, các tập đoàn tư bản… với các loại hình kinh doanh tương ứng như hộ sản xuất, kinh doanh cá thể (hộ nông dân, hộ tiểu – thủ công nghiệp, hộ kinh doanh dịch vụ…), chủ trang trại, hộ tiểu chủ, doanh nghiệp tư nhân, doanh nghiệp tư nhân tư bản (tư bản trong nước và tư bản ngoài nước), tập đoàn tư bản.

Thành phần kinh tế hỗn hợp (một phần trong đó là chủ nghĩa tư bản nhà nước theo cách gọi của V.I.Lênin) bao gồm các công ty, các doanh nghiệp, các hợp tác xã, các tổ chức kinh tế được hình thành trên cơ sở liên kết các chủ sở hữu khác nhau với nhau: giữa chủ thể kinh tế công và chủ thể kinh tế tư nhân trong nước; giữa chủ thể kinh tế công và chủ thể kinh tế tư nhân nước ngoài; giữa các chủ thể kinh tế tư nhân trong nước với nhau; giữa chủ thể kinh tế tư nhân trong nước và chủ thể kinh tế tư nhân nước ngoài… để thúc đẩy phát triển mọi hình thức liên kết sản xuất kinh doanh, cung cấp hàng hóa, dịch vụ theo mạng sản xuất và chuỗi giá trị thị trường nhằm tiếp nhận, chuyển giao, tạo sự lan tỏa về công nghệ tiên tiến và quản trị hiện đại, nâng cao giá trị gia tăng và mở rộng thị trường tiêu thụ. Loại hình tổ chức sản xuất – kinh doanh thường là công ty liên doanh, công ty hợp doanh, công ty cổ phần, công ty trách nhiệm hữu hạn có từ hai chủ sở hữu trở lên, các loại hình hợp tác xã…

Như vậy, nội hàm đầu tiên trong nền tảng tư tưởng của Đảng trên lĩnh vực kinh tế là: Trong nền kinh tế quá độ của thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội có nhiều chế độ sở hữu, nhiều hình thức sở hữu, nhiều thành phần kinh tế. Mỗi thành phần kinh tế có vị trí, vai trò quan trọng khác nhau, trong đó thành phần kinh tế công giữ vị trí, vai trò then chốt, thành phần kinh tế tư nhân là một động lực quan trọng của nền kinh tế. Kinh tế công cùng với kinh tế tư nhân là nòng cốt để phát triển nền kinh tế có tính tự chủ cao. Các chủ thể thuộc các thành phần kinh tế cùng hợp tác, cạnh tranh, bình đẳng trước pháp luật, cùng nhau huy động và sử dụng hiệu quả mọi nguồn lực xã hội đóng góp vào sự phát triển kinh tế – xã hội chung của đất nước với mục tiêu “dân giàu, nước mạnh, xã hội dân chủ, công bằng, văn minh”.

Kinh tế Việt Nam là nền kinh tế hàng hóa nhiều thành phần phát huy tối đa năng lực sản xuất xã hội

2. Sự quản lý của Nhà nước là cần thiết để khắc phục khuyết tật của Kinh tế thị trường

Kinh tế thị trường đã có quá trình hình thành và phát triển lâu dài. Ngày nay, kinh tế thị trường là hình thức tổ chức sản xuất phổ biến không chỉ ở các nước phát triển, mà còn ở cả các nước đang phát triển, có ảnh hưởng to lớn đến đời sống kinh tế – xã hội của thế giới nói chung và của từng quốc gia nói riêng.

Kinh tế thị trường tự do có mục tiêu chính là lợi nhuận, được điều tiết bởi “bàn tay vô hình” thông qua các quy luật khách quan, như quy luật cung – cầu, quy luật giá trị, thông qua cạnh tranh tự do và có tính chất tự điều chỉnh. Có thể hiểu nền kinh tế thị trường là nền kinh tế trong đó các quan hệ thị trường quyết định sự phân bổ nguồn lực thông qua hệ thống giá cả. Trong đó, các cá nhân được tự do ra quyết định kinh tế; Các doanh nghiệp được tự do lựa chọn ngành, nghề kinh doanh, lựa chọn quy mô, công nghệ sản xuất và thuê các yếu tố sản xuất; tự do lựa chọn địa điểm và phương thức phân phối sản phẩm tạo ra… Hầu hết các quyết định đó không xuất phát từ động cơ đóng góp cho phúc lợi chung của toàn xã hội mà xuất phát từ lợi ích riêng.

Trong cuốn sách “Một số vấn đề lý luận và thực tiễn của quá trình chuyển sang nền kinh tế thị trường ở nước ta” (Tập I, các trang 15-19) xuất bản năm 1992, đồng chí Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng và các nhà khoa học kinh tế đã vạch rõ tính chất hai mặt của kinh tế thị trường. Trong đó có những điểm đáng chú ý sau:

Mặt ưu thế của Kinh tế thị trường bao gồm: Tính mềm dẻo, tính tự điều chỉnh cao nên dễ thích nghi khi có những biến cố, biến động. Tính năng động cao, luôn luôn có sự đổi mới kỹ thuật, công nghệ nhằm đổi mới, nâng cao chất lượng sản phẩm và dịch vụ. Nhu cầu xã hội rất đa dạng, do đó các loại hàng hóa, các loại dịch vụ cũng được đa dạng hóa và phải rất phong phú để đáp ứng các nhu cầu tiêu dùng khác nhau. Mức độ hoạt động hiệu quả của từng doanh nghiệp được thể hiện rất rõ ràng. Người lao động buộc phải năng động, phải chủ động nâng cao trình độ mọi mặt và phải nghiêm túc trong lao động để không bị đào thải.

Mặt khuyết tật bao gồm: Kinh tế thị trường chỉ chú ý đầy đủ đến lợi nhuận, lợi ích cá nhân, khá nhiều trường hợp gây thiệt hại chung cho xã hội, hủy hoại môi trường sinh thái. Tính tự phát, cạnh tranh tự nó không bảo đảm được tính hợp lý về cơ cấu sản phẩm, gây lãng phí nghiêm trọng. Kinh tế thị trường không bảo đảm được cơ cấu kinh tế hợp lý, nói cách khác là, cơ cấu kinh tế hình thành tự phát. Đặc biệt là các mục tiêu xã hội không được giải quyết hợp lý, thấu đáo, vì kinh tế thị trường chỉ chú ý đến các nhu cầu có khả năng thanh toán, rất lạnh lùng với các nhu cầu không có khả năng thanh toán (của người nghèo, tầng lớp yếu thế trong xã hội). Kinh tế thị trường gây ra phân cực xã hội, phân hóa giàu nghèo với mức độ lớn. Quan hệ xã hội trong nhiều trường hợp lấy đồng tiền và địa vị cá nhân làm thước đo lẫn nhau. Các tệ nạn xã hội nảy sinh và phát triển rất nghiêm trọng.

Chính bởi những lý do này mà nhà nước cần can thiệp vào các hoạt động kinh tế. Các nhà kinh tế đã khẳng định, mặc dù không thể thay thế thị trường, nhưng nhà nước có thể hoàn thiện các hoạt động của thị trường. Sự quản lý của nhà nước đối với nền kinh tế thị trường, được thực hiện chủ yếu là tạo ra hành lang pháp lý cho các chủ thể trên thị trường hoạt động thông qua pháp luật, thể chế, trên cơ sở vận dụng quy luật của kinh tế thị trường; tiến hành thanh tra, kiểm tra, xử lý vi phạm để bảo đảm sự bình đẳng của các chủ thể trong cạnh tranh; khi thật cần thiết và trong một số lĩnh vực, Nhà nước cần dùng bàn tay hữu hình can thiệp bằng các biện pháp hành chính.

Trong điều kiện xã hội tiềm ẩn nhiều bất ổn từ bên ngoài như hiện nay, giá cả thế giới leo thang, cộng hưởng với thiên tai, dịch bệnh và những nguyên nhân khách quan và chủ quan khác thì việc kết hợp chặt chẽ giữa “bàn tay hữu hình” và “bàn tay vô hình” càng trở nên cần thiết.

Phát triển nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa là một trong những vấn đề căn bản của triết lý phát triển ở Việt Nam hiện nay. Từ rất sớm, chúng ta đã khẳng định, nền kinh tế mà chúng ta đang xây dựng phải có sự quản lý của Nhà nước. Kiên định với tư tưởng đó, tại Đại hội X, Đảng ta nhấn mạnh sự cần thiết phải “bảo đảm vai trò quản lý, điều tiết nền kinh tế của Nhà nước pháp quyền Xã hội chủ nghĩa”.

Trong bài viết của mình, Tổng Bí thư đã nói rõ, kinh tế thị trường là thành tựu, là giá trị văn minh mà nhân loại đã đạt được qua các thời kỳ phát triển. Đương nhiên, việc kế thừa những thành tựu đó phải có chọn lọc trên quan điểm khoa học, phát huy và phát triển. Điểm lại những ưu thế và khuyết tật của kinh tế thị trường là để chúng ta chọn lọc, kế thừa, phát huy và phát triển một cách đúng đắn những ưu thế của nó. Đồng thời phải ngăn ngừa, khắc phục, hạn chế tối đa những tiêu cực, những khuyết tật, những khiếm khuyết mang trên cơ thể nó.

Từ đó mà hình thành một nền kinh tế thị trường Việt Nam – nền kinh tế thị trường định hướng Xã hội chủ nghĩa. Theo Tổng Bí thư, đó là “nền kinh tế thị trường hiện đại, hội nhập quốc tế, vận hành đầy đủ, đồng bộ theo các quy luật của kinh tế thị trường, có sự quản lý của Nhà nước pháp quyền Xã hội chủ nghĩa, do Đảng Cộng sản Việt Nam lãnh đạo; bảo đảm định hướng Xã hội chủ nghĩa, nhằm mục tiêu dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh”.

Như vậy, nội hàm thứ hai trong nền tảng tư tưởng của Đảng trên lĩnh vực kinh tế là: nền kinh tế thị trường mà nước ta xây dựng là nền kinh tế hàng hóa nhiều thành phần, vận hành theo cơ chế thị trường có sự quản lý của Nhà nước.

Sự quản lý của Nhà nước là cần thiết để khắc phục khuyết tật của Kinh tế thị trường

3. Kinh tế thị trường định hướng Xã hội chủ nghĩa là xu thế vận động tất yếu khách quan trong quá trình đi lên Chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam

Lựa chọn mô hình kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa không phải là sự gán ghép chủ quan giữa kinh tế thị trường và Chủ nghĩa xã hội, mà là sự nắm bắt và vận dụng xu thế vận động khách quan của kinh tế thị trường trong thời đại ngày nay. Đảng Cộng sản Việt Nam trên cơ sở nhận thức tính quy luật phát triển của thời đại và sự khái quát, đúc rút từ kinh nghiệm phát triển kinh tế thị trường, đặc biệt là từ thực tiễn xây dựng chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam và ở Trung Quốc, để đưa ra chủ trương phát triển nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, nhằm sử dụng kinh tế thị trường để thực hiện mục tiêu từng bước quá độ lên Chủ nghĩa xã hội. Kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa là mô hình kinh tế trong thời kỳ quá độ đi lên chủ nghĩa xã hội. Đây là một kiểu kinh tế thị trường mới trong lịch sử phát triển của kinh tế thị trường. Cũng có thể nói kinh tế thị trường là “cái phổ biến”, còn kinh tế thị trường định hướng Xã hội chủ nghĩa là “cái đặc thù” của Việt Nam, phù hợp với điều kiện và đặc điểm cụ thể của Việt Nam.

Mục đích của kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa là phát triển lực lượng sản xuất, phát triển kinh tế để xây dựng cơ sở vật chất – kỹ thuật của chủ nghĩa xã hội, nâng cao đời sống nhân dân. Phát triển lực lượng sản xuất hiện đại gắn liền với xây dựng quan hệ sản xuất mới, tiên tiến.

Kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa có nhiều hình thức sở hữu, nhiều thành phần kinh tế, trong đó kinh tế nhà nước giữ vai trò chủ đạo; kinh tế nhà nước cùng với các thành phần kinh tế khác phát huy nội lực của toàn dân và thu hút ngoại lực từ bên ngoài để phát triển nền kinh tế quốc dân

Kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa thực hiện phân phối chủ yếu theo kết quả lao động và hiệu quả kinh tế, đồng thời phân phối theo mức đóng góp vốn và các nguồn lực khác vào sản xuất, kinh doanh và thông qua phúc lợi xã hội. Tăng trưởng kinh tế gắn liền với bảo đảm tiến bộ và công bằng xã hội ngay trong từng bước phát triển. Tăng trưởng kinh tế đi đôi với phát triển văn hóa và giáo dục, xây dựng nền văn hóa Việt Nam tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc, nâng cao dân trí, giáo dục và đào tạo con người, xây dựng và phát triển nguồn nhân lực của đất nước.

Cũng có thể nói, kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa là một kiểu tổ chức kinh tế của một xã hội đang trong quá trình chuyển biến từ nền kinh tế còn ở trình độ thấp sang nền kinh tế ở trình độ cao hơn hướng tới chế độ xã hội mới – xã hội xã hội chủ nghĩa. Đây là nền kinh tế thị trường có tổ chức, có sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản và sự quản lý của Nhà nước Xã hội chủ nghĩa, được định hướng cao về mặt xã hội, hạn chế tối đa những khuyết tật của tính tự phát thị trường, nhằm phục vụ tốt nhất lợi ích của đại đa số nhân dân và sự phát triển bền vững của đất nước.

Kinh tế thị trường định hướng Xã hội chủ nghĩa là xu thế vận động tất yếu khách quan trong quá trình đi lên Chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam

Nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa phát huy tính tích cực, chủ động, sáng tạo của nhân dân trong phát triển kinh tế – xã hội. Nhà nước quản lý bằng chính sách, pháp luật, chiến lược, quy hoạch; sử dụng cơ chế thị trường để giải phóng sức sản xuất. Nhà nước ban hành các văn bản quy phạm pháp luật nhằm định hướng và tạo môi trường pháp lý cho sự phát triển các thành phần kinh tế và các chủ thể kinh tế. Tại Hội nghị Trung ương 6 khóa X, tháng 3-2008, Đảng ta khẳng định, nền Kinh tế thị tường định hướng xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam là nền kinh tế vừa tuân theo quy luật của thị trường, vừa chịu sự chi phối bởi các quy luật kinh tế của chủ nghĩa xã hội và các yếu tố bảo đảm tính định hướng xã hội chủ nghĩa.Trong nền kinh tế thị trường, định hướng xã hội chủ nghĩa, không phải thị trường điều tiết hoàn toàn mà còn có sự điều chỉnh, quản lý của Nhà nước để đạt các mục tiêu phát triển kinh tế – xã hội trong từng thời kỳ, gắn phát triển kinh tế với thực hiện tiến bộ và công bằng xã hội, khắc phục những bất cập, khuyết tật của cơ chế thị trường nhằm thực hiện mục tiêu dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh.

Lựa chọn mô hình kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa không phải đơn giản là sự trở về với phương thức chuyển nền kinh tế nông nghiệp sang nền kinh tế công nghiệp, mà điều quan trọng có ý nghĩa quyết định là phải chuyển sang nền kinh tế hiện đại, văn minh nhằm mục tiêu từng bước đi lên Chủ nghĩa xã hội. Đây là sự lựa chọn phù hợp với các quy luật phát triển và các điều kiện lịch sử cụ thể của thời đại và của những nước đi sau, cho phép các nước này giảm thiểu được những thiệt hại và rút ngắn được con đường đi của mình tới chủ nghĩa xã hội trên cơ sở sử dụng được ưu thế cũng như hạn chế được những khuyết điểm của hai cơ chế: kế hoạch và thị trường. Nói cách khác, kinh tế thị trường định hướng Xã hội chủ nghĩa là kiểu tổ chức kinh tế đặc biệt, vừa tuân theo những nguyên tắc và quy luật của hệ thống kinh tế thị trường, vừa bảo đảm tính định hướng Xã hội chủ nghĩa. Chính tính chất, đặc trưng cơ bản này chi phối và quyết định phương tiện, công cụ, động lực của nền kinh tế và con đường đạt tới mục tiêu, là sử dụng kinh tế thị trường, nâng cao hiệu lực và hiệu quả điều tiết của Nhà nước xã hội chủ nghĩa, phát triển khoa học và công nghệ, phát triển nguồn nhân lực, mở cửa và hội nhập nhằm thúc đẩy quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa và phát triển rút ngắn để trong khoảng thời gian không dài có thể khắc phục tình trạng lạc hậu, đưa Việt Nam trở thành một nước công nghiệp theo hướng hiện đại.

Như vậy, Nền kinh tế mà Việt Nam lựa chọn là nền kinh tế thị trường, có sự quản lý của nhà nước, theo định hướng Xã hội chủ nghĩa với các mục tiêu dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh. Đây là đường lối đúng đắn đã được thực tiễn chứng minh và phải được duy trì nhất quán với vai trò là nền tảng tư tưởng cơ bản của Đảng trong lĩnh vực kinh tế.

Tran Thi Khanh Ngoc-VNB
Share bài viết:

Trả lời

Email của bạn sẽ không được hiển thị công khai. Các trường bắt buộc được đánh dấu *

Chào mừng trở lại!

Đăng nhập vào tài khoản của bạn dưới đây

Lấy lại mật khẩu của bạn

Vui lòng nhập tên người dùng hoặc địa chỉ email để đặt lại mật khẩu của bạn.