Doanh nghiệp nhà nước luôn giữ vững vai trò quan trọng, then chốt và là lực lượng vật chất quan trọng của kinh tế nhà nước, góp phần thúc đẩy phát triển kinh tế và thực hiện tiến bộ, công bằng xã hội. Trong bối cảnh hội nhập quốc tế sâu rộng hiện nay, để thúc đẩy doanh nghiệp nhà nước phát triển bền vững, rất cần hoàn thiện cơ chế, chính sách đối với khu vực doanh nghiệp này phù hợp với cơ chế thị trường.
Vai trò của khu vực doanh nghiệp nhà nước nói chung và trong lĩnh vực hàng không nói riêng
Chủ trương, quan điểm của Đảng về vị trí, vai trò của doanh nghiệp nhà nước (DNNN) trong nền kinh tế đã có những thay đổi qua các kỳ đại hội của Đảng cùng với quá trình đổi mới tư duy, nhận thức của Đảng, sự phát triển của nền kinh tế, của doanh nghiệp thuộc các thành phần kinh tế khác và quá trình mở cửa, hội nhập kinh tế quốc tế.
Tuy nhiên, vai trò, vị trí của DNNN ở nước ta luôn được khẳng định và được định hướng bởi chủ trương, đường lối của Đảng về phát triển kinh tế nhà nước cũng như việc sắp xếp, đổi mới, phát triển DNNN. Có thể đánh giá kết quả trong thực hiện vai trò của khu vực DNNN như sau:
Những kết quả tích cực
Một là, thời gian qua, số lượng DNNN đã giảm mạnh cùng với việc thực hiện cơ cấu lại, cổ phần hóa (CPH), thoái vốn nhà nước tại doanh nghiệp. Mặc dù chỉ chiếm gần 0,4% số lượng doanh nghiệp đang hoạt động có kết quả sản xuất, kinh doanh, nhưng các DNNN vẫn đang nắm giữ nhiều nguồn lực quan trọng của nền kinh tế; quản lý, khai thác phần lớn tài sản thuộc sở hữu toàn dân như khoáng sản, tài nguyên, kết cấu hạ tầng một số ngành then chốt,…
Tại thời điểm đầu năm 2023, tổng tài sản của doanh nghiệp nhà nước trên cả nước đạt 3.821.459 tỷ đồng, tăng 4% so đầu năm 2022. Trong đó, khối các tập đoàn, tổng công ty, công ty mẹ – con có tổng tài sản 3.511.993 tỷ đồng, chiếm 92% tổng tài sản của các doanh nghiệp nhà nước. Tổng vốn chủ sở hữu của doanh nghiệp nhà nước đạt 1.807.999 tỷ đồng; trong đó, khối các tập đoàn, tổng công ty, công ty mẹ – con là 1.621.006 tỷ đồng, tăng 3% so thời điểm đầu năm 2022, chiếm 90% tổng vốn chủ sở hữu của doanh nghiệp nhà nước. Tổng giá trị vốn nhà nước đang đầu tư tại các doanh nghiệp nhà nước là 1.699.125 tỷ đồng, tăng 3% so đầu năm 2022.
Hai là, các DNNN đang giữ vai trò chi phối nhiều ngành, lĩnh vực quan trọng, then chốt của nền kinh tế. Theo Bộ Kế hoạch và Đầu tư, đến hết năm 2023, Việt Nam có 676 doanh nghiệp nhà nước, trong đó gồm 478 doanh nghiệp do Nhà nước nắm giữ 100% vốn điều lệ và 198 doanh nghiệp do Nhà nước nắm giữ cổ phần chi phối doanh nghiệp nhà nước hiện diện ở nhiều ngành, lĩnh vực có vai trò, vị trí quan trọng của nền kinh tế, trong 478 doanh nghiệp do Nhà nước nắm giữ 100% vốn điều lệ (gồm 143 doanh nghiệp thuộc các cơ quan trung ương; 335 doanh nghiệp thuộc địa phương) có 6 tập đoàn kinh tế, 53 tổng công ty nhà nước; 18 công ty TNHH MTV (trách nhiệm hữu hạn một thành viên) hoạt động theo mô hình công ty mẹ – công ty con và 401 công ty TNHH MTV độc lập.
Ba là, DNNN có vai trò lớn trong sản xuất, cung ứng sản phẩm, dịch vụ công ích. Nhiều tập đoàn kinh tế, tổng công ty nhà nước trực tiếp tham gia phục vụ an ninh – quốc phòng, thực hiện các chính sách an sinh xã hội, kết hợp phát triển kinh tế với bảo đảm an ninh – quốc phòng và chủ quyền quốc gia. Các DNNN cũng đóng vai trò quan trọng trong xây dựng và phát triển hệ thống kết cấu hạ tầng cần thiết cho phát triển kinh tế – xã hội, trước hết là kết cấu hạ tầng giao thông, nông nghiệp, nông thôn, năng lượng, viễn thông.
Trong năm 2023, các doanh nghiệp nhà nước nói chung đã tập trung thực hiện các dự án đầu tư để nâng cao năng lực, quy mô sản xuất, kinh doanh. Các dự án cơ bản được doanh nghiệp nhà nước khẩn trương thực hiện bảo đảm tiến độ, hiệu quả, tiết kiệm theo kế hoạch được duyệt, tuy nhiên, vẫn còn doanh nghiệp nhà nước chưa hoàn thành kế hoạch giải ngân dự án đầu tư.
Theo báo cáo của Ủy ban Quản lý vốn nhà nước tại doanh nghiệp, tính riêng 19 tập đoàn, tổng công ty do Ủy ban làm đại diện chủ sở hữu, số vốn đầu tư giải ngân ước đạt 161.000 trên tổng số 208.328 tỷ đồng, tương đương gần 80% kế hoạch năm. Một số tập đoàn có kết quả giải ngân tích cực như Tập đoàn Công nghiệp Than – Khoáng sản Việt Nam đạt 97% kế hoạch; Tập đoàn Điện lực Việt Nam đạt 99%; Tập đoàn Xăng dầu Việt Nam đạt 93%; Tập đoàn Hóa chất Việt Nam đạt 135%…
Riêng ngành hàng không là ngành kinh tế giữ vai trò hết sức quan trọng xét trong tổng thể nền kinh tế của một quốc gia nói chung, vai trò của Tổng công ty Hàng không (TCTHK) còn thể hiện qua các vai trò sau:
Thứ nhất, hàng không thực hiện việc kết nối giao thương, văn hóa, giáo dục giữa các vùng miền, các quốc gia với nhau. Hàng không có những ưu điểm vượt trội so với các loại hình vận chuyển hành khách, hàng hóa khác về tốc độ, tính linh hoạt và mức độ an toàn. Đối với lĩnh vực vận tải hàng hóa, hàng không đã cung cấp một phương thức vận tải bảo đảm hàng hóa có giá trị cao, dễ hư hỏng có thể được di chuyển một cách hiệu quả và nhanh chóng trên khắp thế giới.
TCTHK thực hiện, mở rộng mạng đường bay quốc tế, thông qua việc khai thác trực tiếp cũng như việc hợp tác với các hãng hàng không đối tác của mình, đảm bảo việc kết nối Việt Nam với hầu hết các khu vực trên thế giới (hơn 1000 điểm đến toàn cầu), góp phần kết nối giao lưu văn hóa, thúc đẩy phát triển kinh tế xã hội. TCTHK có đường bay thẳng tới Mỹ, khai thác trực tiếp đến 4/5 châu lục trên thế giới.
Thứ hai, hàng không đóng vai trò lan tỏa trong nền kinh tế: nhờ sự phát triển của cầu hàng không, các hoạt động khác như thương mại, đầu tư, du lịch, học tập, thị trường lao động được hưởng lợi và có cơ hội phát triển. Theo thống kê, có tới hơn 80% lượng khách quốc tế đến Việt Nam là bằng đường hàng không. Theo Hiệp hội vận tải Hàng không quốc tế (IATA), cứ 01 lao động trong lĩnh vực hàng không sẽ tạo ra 24 việc làm cho các ngành trong chuỗi cung ứng du lịch, khách sạn, nhà hàng, giải trí,… đồng thời đem lại nguồn thu rất lớn cho nền kinh tế.
Thứ ba, trong phạm vi một quốc gia, đặc biệt tại các quốc gia có mức độ phát triển giữa các địa phương chưa đồng đều như Việt Nam, hàng không đóng vai trò xã hội quan trọng đối với việc phát triển kinh tế vùng miền, đặc biệt tại các địa bàn còn khó khăn, chưa được đầu tư phát triển giao thông đường bộ, đường sắt…
Thứ tư, bản thân hàng không là một ngành kinh tế quan trọng và có đóng góp lớn vào GDP. Trên toàn cầu, ngành hàng không đóng góp 65,5 triệu việc làm trên khắp thế giới và đóng góp 2,7 nghìn tỷ USD (3,6%) tổng sản phẩm quốc nội (GDP) của thế giới. Nếu hàng không là một quốc gia, nó sẽ đứng thứ 20 về quy mô theo GDP. Con số đó tương đương với GDP của Thụy Sĩ hoặc Argentina. Hàng không toàn cầu đóng góp nhiều hơn vào GDP toàn cầu so với lĩnh vực sản xuất ô-tô hoặc sản xuất dược phẩm.
Đặc biệt, với sứ mệnh là hãng hàng không quốc gia, ngoài thực hiện vai trò của 1 hãng hàng không, TCTHK còn thực hiện nhiều các nhiệm vụ chính trị, xã hội, an ninh quốc phòng vì sự phát triển lâu dài, bền vững của đất nước. Hàng năm, ước tính TCTHK thực hiện hàng chục chuyến bay chuyên cơ an toàn, chu đáo phục vụ lãnh đạo Đảng, Nhà nước; Thực hiện hỗ trợ các lực lượng vũ trang an ninh quốc phòng trong việc chuyển quân gấp khi có các diễn biến bất thường tại các địa phương trong nước; Trong các giai đoạn khủng hoảng đe dọa đến tình trạng an ninh, an toàn tại các khu vực trên thế giới, TCTHK đã thực hiện các nhiệm vụ vận chuyển công dân Việt Nam từ các thị trường quốc tế khi xảy ra khủng hoảng.
Nhận diện những vấn đề đặt ra trong cơ chế, chính sách phát triển doanh nghiệp nhà nước
Một số hạn chế, yếu kém
Mặc dù đạt được nhiều kết quả tích cực, nhưng vai trò của DNNN còn nhiều hạn chế, yếu kém, đó là:
Doanh nghiệp nhà nước vẫn đóng vai trò quan trọng trong nền kinh tế, thực hiện các chính sách phát triển kinh tế, an sinh xã hội, xóa đói, giảm nghèo, trực tiếp nắm các nguồn lực quan trọng và giữ vị trí chi phối trong nhiều ngành, lĩnh vực then chốt của nền kinh tế, tuy nhiên, kết quả thực hiện vai trò chủ đạo của kinh tế nhà nước, mà DNNN là nòng cốt chưa rõ, vẫn còn nhiều hạn chế, bất cập
Nhiều DNNN chưa thể hiện rõ vai trò nổi bật trong việc dẫn dắt, tạo động lực, mở đường, hướng dẫn, thúc đẩy các thành phần khác phát triển, thúc đẩy liên kết chuỗi giá trị gia tăng. DNNN còn yếu ở những ngành có ảnh hưởng quyết định đến việc hỗ trợ nâng cao sức cạnh tranh của nền kinh tế và của khu vực doanh nghiệp Việt Nam; trước hết là các ngành công nghệ cao, các ngành có khả năng dẫn dắt, chuyển đổi cơ cấu kinh tế theo hướng hiện đại hóa, công nghiệp hóa như cơ khí chính xác, sản xuất, chế tạo linh kiện, máy móc và thiết bị hoàn chỉnh cho các ngành sản xuất; công nghệ nguồn…
Trong hỗ trợ và nâng cao chất lượng đời sống nhân dân, phát triển kinh tế – xã hội, chuyển dịch cơ cấu tại các địa bàn có điều kiện kinh tế – xã hội khó khăn còn nhiều hạn chế. Việc DNNN tham gia thực hiện các chính sách an sinh xã hội, phục vụ an ninh – quốc phòng có kết quả đáng ghi nhận, song thiếu rõ ràng về mục tiêu, nhiệm vụ và hiệu quả.
Hiệu quả của DNNN chưa tương xứng với nguồn lực nắm giữ, hiệu quả đầu tư chưa như kỳ vọng, đầu tư ra nước ngoài gặp khó khăn, một số dự án có vốn đầu tư lớn không thành công, tiềm ẩn rủi ro, một số dự án lỗ lũy kế lớn trong nhiều năm, phương thức tái cơ cấu chưa hiệu quả. Báo cáo của Chính phủ ghi nhận, mặc dù tổng doanh thu năm 2023 của khối doanh nghiệp này đạt 2.761.271 tỷ đồng, tăng 1% so với năm 2022. Tuy nhiên, lãi phát sinh trước thuế chỉ đạt 217.788 tỷ đồng, giảm 13% so với năm 2022. Tỷ suất lãi phát sinh trước thuế/vốn chủ sở hữu bình quân chung của các doanh nghiệp năm 2023 là 12% (năm 2022 là 14%); tỷ suất lãi phát sinh trước thuế/tổng tài sản bình quân chung của các doanh nghiệp năm 2023 là 6% (năm 2022 là 5%).
Một điều đáng chú ý đó là, nếu xét riêng từng loại hình doanh nghiệp, thì doanh nghiệp có ít vốn nhà nước hơn lại hoạt động hiệu quả hơn. Cụ thể, năm 2023, tỷ suất lãi phát sinh trước thuế trên vốn chủ sở hữu bình quân của tập đoàn, tổng công ty mà nhà nước nắm giữ 100% vốn điều lệ là 11%, trong khi con số này ở khối doanh nghiệp do Nhà nước nắm giữ trên 50% vốn điều lệ là 14%, doanh nghiệp do Nhà nước nắm giữ dưới 50% vốn là 15%.
Những hạn chế, yếu kém của khu vực DNNN có nhiều nguyên nhân, trong đó có nguyên nhân từ cơ chế, chính sách phát triển cho khu vực này, tập trung ở một số mặt sau:
Một là, hệ thống thể chế pháp luật cho DNNN còn chưa đầy đủ, đồng bộ, thống nhất, gây khó khăn cho việc cơ cấu lại, đổi mới và nâng cao hiệu quả DNNN. Khuôn khổ pháp lý (luật, pháp lệnh), để thực hiện xử lý các doanh nghiệp, dự án thua lỗ, nhất là các dự án thua lỗ của ngành công thương, các tập đoàn, tổng công ty thua lỗ, mất vốn còn chưa đồng bộ.
Hiện, chưa có quy định cụ thể để ưu tiên cho các công trình, dự án trọng điểm quốc gia, có sức lan tỏa lớn, các ngành, lĩnh vực nhà nước cần nắm giữ lâu dài; củng cố, phát triển một số tập đoàn kinh tế nhà nước có quy mô lớn, hoạt động hiệu quả, có khả năng cạnh tranh khu vực và quốc tế trong một số ngành, lĩnh vực then chốt của nền kinh tế.
Hai là, cơ chế, chính sách về triển khai các hoạt động đầu tư của các DNNN còn vướng mắc. Quá trình triển khai các hoạt động đầu tư, kinh doanh kéo dài do quy định về trình tự, thủ tục đầu tư phức tạp, có nhiều vướng mắc dẫn đến hiệu quả đầu tư thấp, bỏ lỡ cơ hội khi thị trường có diễn biến thuận lợi. Còn nhiều bất cập trong đổi mới quản trị, tăng cường tính công khai, minh bạch trong quản lý DNNN, niêm yết trên thị trường chứng khoán doanh nghiệp sau cổ phần hóa (CPH) đủ điều kiện; trong cải thiện chất lượng quản trị; trong bảo đảm trách nhiệm của các bộ ngành, địa phương, tập đoàn, tổng công ty nhà nước, nhất là người đứng đầu trong cơ cấu lại, CPH, thoái vốn đầu tư nhà nước theo phương án được phê duyệt;…
Các chính sách tạo điều kiện kết nối khu vực DNNN với các doanh nghiệp khác còn yếu. Trong điều kiện nguồn lực của các doanh nghiệp nói chung hiện nay còn hạn chế, việc liên kết giữa khu vực công – tư, hợp tác giữa các loại hình kinh tế, thành phần kinh tế để tham gia chuỗi giá trị toàn cầu là lời giải cho việc giải quyết các vấn đề về vốn, công nghệ, nguồn nhân lực, thị trường.
Ba là, việc đánh giá hiệu quả hoạt động của DNNN, người đại diện phần vốn nhà nước tại doanh nghiệp, người quản lý doanh nghiệp chưa rõ ràng. Thiếu tiêu chí bảo đảm việc minh bạch thông tin đối với tất cả các DNNN theo các tiêu chuẩn áp dụng đối với các công ty đại chúng. Hiệu quả của DNNN cần có sự đánh giá công khai và minh bạch. Chẳng hạn việc tính đúng, tính đủ các yếu tố đầu vào của DNNN, như đất đai, tài nguyên, tài sản theo đúng giá trị thị trường sẽ cho kết quả về tỷ suất lợi nhuận, hệ số gia tăng của vốn đầu tư (ICOR) chính xác, nhất là khi phải thực hiện các nhiệm vụ chính trị – xã hội bên cạnh hoạt động kinh doanh.
Trong khi đó, công tác thanh tra, kiểm toán, cơ chế bảo đảm sự giám sát của Mặt trận Tổ quốc, các tổ chức xã hội, báo chí và của nhân dân đối với hoạt động của DNNN còn hạn chế.
Bốn là, còn thiếu các cơ chế đặc thù để Ủy ban Quản lý vốn nhà nước tại doanh nghiệp thực sự hoạt động hiệu lực, hiệu quả. Vai trò chủ sở hữu vốn nhà nước của Ủy ban Quản lý vốn nhà nước tại doanh nghiệp đối với các tập đoàn kinh tế, tổng công ty nhà nước đã tiếp nhận còn phát sinh một số vướng mắc như việc xác định cơ quan có thẩm quyền quyết định chủ trương đầu tư đối với một số dự án đầu tư của tập đoàn kinh tế, tổng công ty, về phân công, phân cấp thẩm quyền phê duyệt dự án đầu tư…
Năm là, chính sách CPH và thoái vốn nhà nước còn bất cập. Chính sách thu hút cổ đông chiến lược chưa hiệu quả. Chưa có chính sách bảo đảm công khai, minh bạch thông tin. Chính sách thoái vốn nhà nước trong doanh nghiệp vẫn còn có sự chồng chéo giữa một số văn bản và mới chỉ dừng ở các quy định khung mang tính nguyên tắc. Việc rà soát, phê duyệt phương án sử dụng đất của doanh nghiệp thực hiện CPH gặp nhiều khó khăn, nhiều quy trình thủ tục mất nhiều thời gian do lịch sử pháp lý đất đai phức tạp, địa phương phê duyệt chậm, kéo dài thời gian hơn so với quy định,…
Hoàn thiện cơ chế, chính sách để doanh nghiệp nhà nước phát triển bền vững theo cơ chế thị trường
Trước hết, cần khẳng định vị trí, vai trò của DNNN trong xây dựng nền kinh tế thị trường hiện đại và hội nhập quốc tế, đặc biệt trong bối cảnh mới, cuộc Cách mạng công nghiệp lần thứ tư cũng như Việt Nam tham gia các hiệp định thương mại tự do (FTA) thế hệ mới… Trên cơ sở đó, xác định DNNN theo hướng ưu tiên phát triển các ngành mang tính chất nền tảng, dẫn dắt, tạo động lực phát triển cho đất nước, nhận diện đúng về hoạt động kinh doanh của Nhà nước, ở đây Nhà nước được hiểu là chủ thể trên thị trường, bình đẳng trước pháp luật, đồng thời cần giải quyết hài hòa mối quan hệ giữa nhiệm vụ sản xuất, kinh doanh với nhiệm vụ công ích, chính trị, đặt hàng, làm sao để tạo được véc-tơ đồng chiều.
Trước mắt, cần tập trung thực hiện một số giải pháp nhằm hoàn thiện cơ chế, chính sách thúc đẩy khu vực DNNN phát triển bền vững:
Một là, sớm xây dựng và hoàn thiện hệ thống thể chế pháp luật, tạo khuôn khổ và hành lang pháp luật đầy đủ, đồng bộ, thống nhất để cơ cấu lại, đổi mới và nâng cao hiệu quả DNNN. Nghiên cứu, rà soát sửa đổi cơ chế quản lý, giám sát và thực hiện quyền, trách nhiệm của cơ quan và người đại diện sở hữu nhà nước, hoàn thiện mô hình quản lý, giám sát DNNN và vốn, tài sản của nhà nước đầu tư vào doanh nghiệp một cách rõ ràng hơn, phù hợp với bối cảnh tình hình hiện nay, làm cơ sở cho các DNNN hoạt động, tận dụng được thế mạnh của các doanh nghiệp lớn, phát huy vai trò mở đường, dẫn dắt của DNNN.
Tăng cường vai trò và tôn trọng quyền của cơ quan đại diện chủ sở hữu và quyền của doanh nghiệp theo quy định. Hoàn thiện hệ thống luật pháp nhằm tạo quyền chủ động lớn hơn, trách nhiệm rõ ràng hơn cho tập đoàn, tổng công ty nhà nước, kể cả chế độ lương, thưởng gắn với kết quả kinh doanh, cũng như khung mức độ rủi ro trong quá trình thực hiện nhiệm vụ để tạo tâm lý an tâm và thúc đẩy tìm kiếm hiệu quả đầu tư.
Rà soát, xây dựng cơ chế, chính sách hoặc các quy định cụ thể để tách bạch việc thực hiện sản xuất, kinh doanh của doanh nghiệp với các hoạt động sản xuất, cung ứng hàng hóa, dịch vụ công ích do Nhà nước đặt hàng cho doanh nghiệp. Trên cơ sở đó, thực hiện việc giám sát và đánh giá doanh nghiệp trong các hoạt động sản xuất, kinh doanh theo đúng chuẩn mực quốc tế và bảo đảm hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp có vốn nhà nước bình đẳng như các doanh nghiệp khác; tránh việc can thiệp của nhiều cơ quan quản lý vào hoạt động kinh doanh đơn thuần của doanh nghiệp.
Hai là, rà soát và hoàn thiện bộ tiêu chí đánh giá hiệu quả hoạt động của DNNN, người đại diện phần vốn nhà nước tại doanh nghiệp, quản lý doanh nghiệp. Tăng cường minh bạch thông tin đối với tất cả các DNNN theo các tiêu chuẩn áp dụng đối với các công ty đại chúng; nghiên cứu xây dựng cơ sở dữ liệu quốc gia về DNNN; có chế tài xử lý nhằm bảo đảm tính hiệu quả trong việc phối hợp quản lý, sắp xếp doanh nghiệp giữa các bộ, ngành, địa phương. Tăng cường công tác thanh tra, kiểm toán kịp thời phát hiện các vi phạm, xử lý nghiêm minh đối với các vi phạm tạo sự “răn đe” để nâng cao hiệu quả quản lý vốn nhà nước tại doanh nghiệp. Tăng cường sự giám sát của Mặt trận Tổ quốc, các tổ chức xã hội, báo chí và của nhân dân đối với hoạt động của DNNN.
Ba là, kiện toàn và nâng cao hiệu quả hoạt động của Ủy ban Quản lý vốn nhà nước tại doanh nghiệp, có các cơ chế đặc thù để Ủy ban thực sự hoạt động hiệu lực, hiệu quả. Đây là một trong những giải pháp cần thiết thay đổi phương thức quản lý vốn nhà nước đối với DNNN, mà trọng tâm là tập đoàn, tổng công ty nhà nước.
Bốn là, nâng cao vai trò lãnh đạo của tổ chức đảng đối với DNNN trong thời gian tới. Nghiên cứu hoàn thiện mô hình tổ chức đảng, mô hình các tổ chức chính trị – xã hội trong doanh nghiệp. Tập trung xây dựng đội ngũ cán bộ lãnh đạo, nhất là cán bộ chủ chốt doanh nghiệp, nâng cao tính đảng và ý thức tuân thủ pháp luật, đáp ứng yêu cầu, nhiệm vụ trong tình hình mới. Tiếp tục đổi mới phương thức, nâng cao vai trò lãnh đạo của cấp ủy, tổ chức đảng trong DNNN đối với việc thực hiện nhiệm vụ chính trị, công tác xây dựng Đảng.
Riêng đối với ngành hàng không, hiện đang trong giai đoạn phục hồi tích cực, doanh thu của ngành hàng không toàn cầu dự báo tăng trung bình 7 – 8% trong giai đoạn này. Tuy nhiên, ngành hàng không thế giới cũng đối mặt với nhiều thách thức, như rủi ro từ xung đột quân sự Nga – Ucraine, Trung Đông; khó khăn về nguồn nhân lực, biến đổi khí hậu và áp lực tuân thủ chặt chẽ quy định của các nước liên quan trong bảo đảm môi trường; áp lực đổi mới đội bay, mở rộng công suất,…
Trong bối cảnh chung đó, ngành hàng không Việt Nam cũng có những thuận lợi, khó khăn riêng. Về thuận lợi, ngành hàng không Việt Nam tiếp tục phục hồi nhanh chóng; phân khúc thị trường quốc tế tăng trưởng tích cực; hệ thống kết cấu hạ tầng hàng không được quan tâm, đầu tư, từng bước khắc phục tình trạng quá tải về công suất khai thác; hoạt động cung cấp dịch vụ tại các cảng hàng không tiếp tục được bảo đảm về an toàn và chất lượng.
Về khó khăn, kinh tế thế giới phục hồi không như kỳ vọng, lạm phát/lãi suất tăng, giá năng lượng và tỷ giá USD ở mức cao, gây áp lực lên chi phí của ngành hàng không; xung đột quân sự tại một số điểm nóng trên thế giới làm gián đoạn/đứt gãy chuỗi cung ứng toàn cầu, qua đó tác động làm tăng thời gian bảo dưỡng, sửa chữa động cơ; mặc dù có nhiều cải thiện nhưng tình trạng quá tải tại các sân bay vẫn phổ biến, bên cạnh đó là việc thiếu hụt nguồn nhân lực chất lượng cao;…
Đứng trước thuận lợi và khó khăn đó, cần một số cơ chế, chính sách để TCTHK nói riêng, các DNNN trong lĩnh vực này nói chung phát triển bền vững, đó là:
Tiếp tục hỗ trợ ngành hàng không phát triển bền vững thông qua thực hiện cơ cấu lại, cải thiện khả năng thanh toán và xử lý nợ. Có chính sách khuyến khích, tạo điều kiện, hỗ trợ các hãng mua thêm máy bay, phát triển đội tàu bay, mở rộng đường bay đáp ứng nhu cầu phát triển trong tình hình mới.
Giải quyết những điểm nghẽn, cản trở phát triển đối với ngành hàng không. Nới lỏng một số quy định như miễn/giảm thuế nhập khẩu trang thiết bị hàng không, giảm giá nhiên liệu nội địa; Tiếp tục chính sách giảm phí dịch vụ phục vụ mặt đất, thuế bảo vệ môi trường cho ngành hàng không; Bảo đảm cân đối giữa phát triển hãng hàng không, đội tàu bay với năng lực khai thác và hạ tầng sân bay.
Thúc đẩy đầu tư, hoàn thiện kết cấu hạ tầng hàng không. Tăng cường đầu tư mở rộng, nâng cấp kết cấu hạ tầng cảng hàng không, sớm giải quyết tình trạng quá tải với các phương án trước mắt (ngắn hạn) và lâu dài. Đẩy nhanh các dự án trọng điểm quốc gia như sân bay Long Thành, Nhà ga T3 Cảng Hàng không Tân Sơn Nhất.
Hỗ trợ mở rộng thị trường và nâng cao năng lực cạnh tranh. Đẩy mạnh việc nghiên cứu và xúc tiến mở rộng các đường bay giữa Việt Nam với các nước là thị trường trọng điểm, tiềm năng về du lịch. Tăng cường quảng bá hình ảnh, điểm đến Việt Nam ở nước ngoài. Điều chỉnh chính sách thị thực, mở rộng số lượng các quốc gia được miễn thị thực nhập cảnh, tạo điều kiện để thúc đẩy ngành hàng không và du lịch phục hồi, phát triển nhanh chóng.
Có chính sách tạo điều kiện tăng cường hợp tác trong lĩnh vực hàng không dân dụng với các quốc gia/đối tác lớn nhằm trao đổi kinh nghiệm trong quản lý thị trường hàng không; hỗ trợ đào tạo nguồn nhân lực chất lượng cao, đồng thời hỗ trợ Việt Nam phát triển các cơ sở, trung tâm đào tạo đạt chuẩn quốc tế.