Thấm nhuần tư tưởng lãnh đạo đó của Bộ chính trị, các doanh nghiệp Việt Nam luôn nhận thức được tầm quan trọng của đổi mới sáng tạo và chuyển đổi số, coi đây là một động lực, là nguồn sức mạnh để phát triển và hội nhập quốc tế.
Vietnam Airlines – Hãng hàng không quốc gia Việt Nam, một biểu tượng của sự khát khao chinh phục mọi biên giới mềm trên thế giới, cũng đang từng ngày chuyển mình mạnh mẽ trong thời đại mới, từ đó mở ra cơ hội để hãng nâng cao hiệu suất làm việc, khả năng cạnh tranh và sự chuyên nghiệp hóa.

Đại hội Đảng bộ Tổng công ty hàng không Việt Nam (Vietnam Airlines) lần thứ VI đã xác định rõ mục tiêu đến năm 2030 là xây dựng Vietnam Airlines trở thành Hãng hàng không 5 sao toàn diện, hiện đại, an toàn, hiệu quả, thân thiện môi trường, trở thành nhóm hai hãng hàng không có dịch vụ đầy đủ nhất Đông Nam Á và nằm trong top 10 hãng hàng không được yêu thích tại Châu Á. Để đạt được mục tiêu này, việc đẩy mạnh ứng dụng khoa học công nghệ, thúc đẩy đổi mới sáng tạo và triển khai chuyển đổi số toàn diện không còn là sự lựa chọn, mà là yêu cầu tất yếu, khách quan và có ý nghĩa quyết định.
Trước mục tiêu và khát vọng vươn xa mạnh mẽ của Tổng công ty Hàng không Việt Nam, Ban Pháp chế – cơ quan chịu trách nhiệm tham mưu, giúp việc cho HĐQT và TGĐ các vấn đề về pháp lý xoay quanh hoạt động sản xuất kinh doanh, cũng đang đứng trước những thách thức lớn, đòi hỏi toàn bộ tập thể và từng cá nhân phải đổi mới liên tục, trong đó phải kể đến là ứng dụng khoa học công nghệ và chuyển đổi số trong các công tác, nghiệp vụ chuyên môn.
Với khối lượng công việc dàn trải trong nhiều lĩnh vực như thương mại, hợp đồng, thuê mua tàu bay, mua sắm, đầu tư, tài chính, đất đai, doanh nghiệp vốn góp, văn bản quản lý, giải quyết khiếu nại, tố cáo cùng hệ thống đồ sộ các quy định pháp luật trong nước và quốc tế; tiến độ hoàn thành và chất lượng công việc đang là những yếu tố tạo nên áp lực lớn cho tập thể Ban Pháp chế. Nhưng đây chính là một trong những động lực để thúc đẩy việc tận dụng các giải pháp công nghệ để tự động hóa các tác vụ lặp đi lặp lại, tăng tốc độ xử lý, quản lý rủi ro, giảm thiểu các sai sót, đảm bảo chất lượng và tính đồng nhất nhất trong các hướng dẫn pháp lý và hỗ trợ đắc lực trong việc đưa ra các tư vấn, tham mưu pháp lý quan trọng cho ban lãnh đạo.
Phần mềm quản lý hợp đồng của Tổng công ty đã và đang hỗ trợ đáng kể vào quá trình lưu trữ, quản lý và kiểm soát hợp đồng. Thay vì việc lưu trữ một khối lượng “khổng lồ” các hợp đồng dưới dạng văn bản giấy với tình trạng các thông tin về chủ thể kí kết, phạm vi dịch vụ, khối lượng hàng hóa, giá trị hợp đồng, kỳ hạn thanh toán, thời hạn chấm dứt không được tổng hợp và quản lý đồng bộ, phần mềm quản lý hợp đồng cho phép tăng hiệu quả công tác quản lý và giảm thiểu phần lớn thời gian tìm kiếm, tra soát các hợp đồng khi cần thiết.
Chưa dừng lại ở đó, việc quản lý tài liệu pháp lý cũng cần được Ban Pháp chế tiếp tục nghiên cứu để tối ưu hóa hơn nữa. Trong những năm gần đây, các công ty luật cũng như các bộ phận pháp chế trong các doanh nghiệp lớn đã bắt đầu sử dụng phần mềm soạn thảo pháp lý để giúp hợp lý hóa và tối ưu hóa quy trình ban hành và quản lý tài liệu. Họ sử dụng những giải pháp công nghệ cho phép con người xử lý từng giai đoạn của tài liệu pháp lý, hỗ trợ tạo ra các tài liệu, văn bản, hợp đồng mới dựa trên những dữ liệu và thông tin từ kho lưu trữ tài liệu nội bộ của doanh nghiệp, từ đó tiết kiệm thời gian và tăng độ chính xác nhờ vào việc tự động hóa nhiều lần kiểm tra lỗi hiệu đính để đảm bảo không có lỗi đánh máy và sai sót nào bị bỏ qua.
Bên cạnh hệ thống thư viện điện tử đã được Tổng công ty hoàn thiện và đang góp phần phục vụ công tác tra cứu văn bản quản lý nội bộ, Tổng công ty đang tiến tới xây dựng nền tảng dữ liệu chung đi kèm với ứng dụng trí tuệ nhân tạo tạo sinh nhằm hỗ trợ công tác tra cứu của các CQ, ĐV trong hoạt động chuyên môn. Học hỏi từ kinh nghiệm thực tiễn của các doanh nghiệp lớn trên thế giới, Ban Pháp chế nhận thấy rằng, việc phát triển một cơ sở dữ liệu pháp lý trên nền tảng dữ liệu chung của Tổng công ty cũng là một trong những vấn đề cần được quan tâm. Bằng việc truy cập cơ sở dữ liệu pháp lý này, các chuyên viên pháp chế có thể tra cứu nhanh chóng các quy định nội bộ, đặc biệt là tham khảo các vụ việc tương tự và các tư vấn pháp lý trước đây, làm cơ sở để đưa ra các tham mưu, hướng dẫn, tư vấn pháp lý cho từng thời kỳ một cách chính xác và đồng nhất.
Bên cạnh đó, công nghệ trí tuệ nhân tạo tạo sinh và các mô hình dữ liệu lớn đang dần cách mạng hóa quy trình thẩm định, rà soát luật pháp và phân tích tài liệu phức tạp, giúp giảm thiểu thời gian xử lý và tăng độ chính xác. Như đã trình bày ở trên, với hệ thống văn bản pháp luật phức tạp có quy mô toàn cầu mà Tổng công ty chịu sự điều chỉnh trong nhiều lĩnh vực, việc rà soát, kiểm soát tuân thủ và giảm thiểu rủi ro vi phạm cũng đặt ra thách thức không nhỏ về tiến độ và chất lượng công việc. Nhưng với sự ra đời của trí tuệ nhân tạo sinh và mô hình dữ liệu lớn cùng với việc ứng dụng các công nghệ này vào nghiệp vụ chuyên môn một cách linh hoạt, công tác rà soát và đảm bảo tuân thủ pháp luật nước ngoài đang được tiếp cận theo hướng cởi mở và “thân thiện hơn”. Việc dễ dàng tiếp cận tri thức nhân loại và nền tảng pháp lý quốc tế thông qua các ứng dụng số sẵn có đã cho phép các chuyên viên pháp chế có thể tự định hướng được phương pháp và nội dung nghiên cứu, đồng thời tạo nên cơ hội để làm giàu vốn kiến thức pháp lý của từng cá nhân. Mặc dù có những lo ngại về việc trí tuệ nhân tạo sẽ thay thế công việc của một chuyên viên pháp lý nội bộ, nhưng không thể phủ nhận rằng, việc sử dụng trí tuệ nhân tạo, dữ liệu lớn đúng cách sẽ đổi mới nghiệp vụ rà soát tuân thủ pháp luật, gia tăng độ chính xác, toàn diện và nâng cao hiệu suất làm việc.
Việc ứng dụng chuyển đổi số và công nghệ hiện đại trong lĩnh vực pháp chế doanh nghiệp mang lại nhiều lợi ích, cơ hội nhưng cũng đi kèm với những rủi ro, thách thức cần được đặc biệt lưu tâm.
Tận dụng lợi thế của công nghệ hiện đại vào nghiệp vụ chuyên môn pháp lý đòi hỏi từng cá nhân phải tích lũy kiến thức và kỹ năng công nghệ, đảm bảo việc sử dụng các phần mềm, công cụ một cách linh hoạt, thông minh để phục vụ cho công việc chuyên môn của từng cá nhân. Mỗi cán bộ, chuyên viên phá chế cần biết lựa chọn công cụ phù hợp cho từng nhiệm vụ, biết kết hợp nhiều công nghệ, nền tảng để giải quyết công việc hiệu quả hơn. Tư duy số cũng là một trong những yếu tố cần được mỗi cá nhân tích lũy từng ngày, để từ đó tăng khả năng thích ứng nhanh với công nghệ mới, sẵn sàng học hỏi và đổi mới trong công việc.
Bên cạnh những lợi ích không thể phủ nhận mà trí tuệ nhân tạo và mô hình dữ liệu lớn đem lại, việc sử dụng những công nghệ này vào trong công tác pháp chế cũng tiềm ẩn rủi ro liên quan đến bảo mật và an toàn dữ liệu. Các nền tảng trí tuệ nhận tạo và mô hình dữ liệu lớn thường thu thập và xử lý khối lượng thông tin vô cùng lớn, trong đó bao gồm các dữ liệu nhạy cảm và nội bộ của doanh nghiệp, các dữ liệu pháp lý quan trọng hoặc các thông tin cá nhân. Việc sử dụng thiếu cẩn trọng và không duy trì các biện pháp bảo mật phù hợp có thể dẫn đến các dữ liệu bị rò rỉ, đánh cắp hoặc sử dụng sai mục đích hoặc phạm pháp. Đối mặt với tình trạng các cuộc tấn công mạng đang ngày càng phổ biến và tinh vi, quá trình thiết lập, vận hành các nền tảng cơ sở dữ liệu pháp lý nội bộ cũng như việc ứng dụng trí tuệ nhận tạo để tra cứu, tham khảo thông tin cần phải được chú trọng về chính sách quản lý dữ liệu chặt chẽ cùng các biện pháp bảo mật tuân theo các tiêu chuẩn quốc tế và đặc biệt là nâng cao ý thức, trách nhiệm của cá nhân người dùng. Chỉ khi đảm bảo an toàn, an ninh dữ liệu, trí tuệ nhân tạo và mô hình dữ liệu lớn mới thực sự phát huy giá trị cho công cuộc chuyển đổi số của Tổng công ty nói chung và hoạt động chuyên môn của Ban Pháp chế nói riêng.
Dễ dàng nhận thấy rằng, pháp chế doanh nghiệp vốn là một chuyên ngành đòi hỏi tư duy phản biện, đánh giá rủi ro và lập luận chặt chẽ. Việc phụ thuộc quá mức vào công nghệ nhân tạo có thể khiến người dùng mất khả năng phân tích độc lập, đánh giá đa chiều và thiếu đi chính kiến nghề nghiệp cũng như trách nhiệm với ý kiến pháp lý mà mình đưa ra.
Tại Ban Pháp chế – Tổng công ty Hàng không Việt Nam, quan điểm khi sử dụng trí tuệ nhân tạo luôn được xác định rõ ràng: Trí tuệ nhân tạo (AI) là công cụ hỗ trợ và không thể thay thế các cán bộ, chuyên viên pháp chế. Các nền tảng AI có thể được sử dụng để tra cứu thông tin sơ bộ, tìm hiểu các thuật ngữ mới, hệ thống hóa quy định, tham khảo ý tưởng hoặc cách tiếp cận vấn đề và con người luôn là người đưa ra quyết định cuối cùng. Việc đối chiếu, kiểm chứng thông tin, nguồn gốc, hiệu lực pháp lý luôn là nguyên tắc trong quy trình làm việc. Quan trọng hơn, việc ứng dụng chuyển đổi số vào công tác pháp chế luôn luôn phải đi kèm với việc phát triển tư duy phản biện, bám sát vào thực tiễn doanh nghiệp và ngữ cảnh cụ thể của pháp luật Việt Nam trong quá trình đánh giá và kết luận, giữ vững chính kiến và đạo đức nghề nghiệp. Người dùng thông minh và tỉnh táo là người biết kết hợp giữa trí tuệ nhân tạo và trí tuệ con người, sử dụng nó như một trợ lý để tăng năng suất làm việc và hỗ trỡ hiệu quả trong việc đưa ra các tư vấn pháp lý chiến lược.

Qua những phân tích nêu trên, có thể thấy rằng, công cuộc chuyển đổi số tại Tổng công ty hàng không Việt Nam đang dần trở thành một “chất xúc tác” mạnh mẽ góp phần đổi mới tư duy và phương pháp làm việc của công tác pháp chế nội bộ, từ đó từng bước kiến tạo một tập thể Ban Pháp chế có chuyên môn cao, bản lĩnh và hiện đại. Nhưng chuyển đổi số trong thời đại mới không chỉ dừng lại ở câu chuyện ứng dụng công nghệ hiện đai, mà là hành trình thay đổi toàn diện về tư duy, tầm nhìn, mô hình quản trị. Những thách thức lớn mà Tổng công ty Hàng không Việt Nam đang đối mặt trong bối cảnh này như định hướng chiến lược, nguồn nhân lực số chất lượng cao, hạ tầng công nghệ, nguồn lực tài chính, bảo mật dữ liệu, khả năng thích nghi, quy trình quản trị rủi ro số cần được nhìn nhận trung thực và xây dựng lộ trình, phương án cụ thể để thích ứng và giải quyết; tiến tới đạt được mục tiêu ứng dụng công nghệ hiện đại và chuyển đổi số trong toàn bộ hoạt động sản xuất, kinh doanh, quản trị và dịch vụ của Vietnam Airlines, từ đó đưa Vietnam Airlines trở thành một trong những hãng hàng không dẫn đầu trong lĩnh vực chuyển đổi số.
Cuối cùng, sẽ thật là thiếu sót nếu không nhắc đến vai trò trung tâm của mỗi cá nhân trong công cuộc chuyển đổi số của đất nước và từng doanh nghiệp. Con người vẫn luôn là chủ thể và mục tiêu của chuyển đổi số, phát triển và đầu tư vào nguồn nhân lực số chính là điều kiện tiên quyết để dẫn đến thành công của hành trình chuyển đổi số quốc gia. Công nghệ đúng là có thể thay đổi được thế giới, nhưng chỉ có con người – với khối óc và con tim, mới có thể quyết định được hướng đi và giá trị của sự thay đổi đó.
Để kết lại bài viết này, xin được trích một câu trong bài phát biểu của Tổng Bí thư Tô Lâm về chuyển đổi số nhân dịp kỷ niệm 79 năm Quốc khánh nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam: “Đất nước ta đang đứng trước vận hội mới, vừa là thời cơ đồng thời cũng là thách thức trên con đường phát triển. Dưới sự lãnh đạo của Đảng, với sự đồng lòng, chung sức của toàn Đảng, toàn dân và cả hệ thống chính trị, chúng ta nhất định sẽ thực hiện thành công cuộc cách mạng chuyển đổi số, tạo ra bước đột phá trong phát triển lực lượng sản xuất và hoàn thiện quan hệ sản xuất, đưa đất nước ta, dân tộc ta vươn mình vượt bậc trong kỷ nguyên mới, kỷ nguyên của tiên tiến, văn minh, hiện đại”.









