Sau hơn 30 năm thực hiện đổi mới, kinh tế – xã hội Việt Nam đã đạt được những thành tựu vô cùng to lớn. Năm 2022, với tốc độ tăng trưởng đạt được là 8,02%, nền kinh tế Việt Nam đã đánh dấu mốc mức tăng trưởng cao nhất kể từ năm 2008. Việt Nam đã được đánh giá thuộc nhóm tăng trưởng cao nhất châu Á và trên thế giới.
Đổi mới đã giúp đưa Việt Nam từ một trong những quốc gia nghèo nhất trên thế giới trở thành quốc gia có thu nhập trung bình, có vị thế ngày càng cao trên trường quốc tế. Tuy nhiên, mức độ cạnh tranh của nền kinh tế Việt Nam chưa cao, năng suất lao động còn hạn chế, mức độ ứng dụng khoa học – công nghệ trong sản xuất, kinh doanh còn thấp.
Để có thể tiếp tục phát triển và thu hẹp khoảng cách với các nước phát triển, hướng tới một nền kinh tế bền vững thì một trong những giải pháp căn cơ, nền tảng nhất là phải chuyển đổi số mạnh mẽ, đi đầu khu vực trong cuộc Cách mạng công nghiệp 4.0.
Trước khi tìm hiểu về chuyển đổi số, chúng ta phải hiểu chuyển đổi số là gì. Chuyển đổi số (Digital Transformation) là việc sử dụng dữ liệu và công nghệ số để thay đổi một cách tổng thể và toàn diện tất cả các khía cạnh của đời sống kinh tế – xã hội, tái định hình cách chúng ta sống, làm việc và liên hệ với nhau.
Nghĩa là chuyển đổi số là quá trình sử dụng các công nghệ số ứng dụng vào đời sống xã hội để tác động làm thay đổi tổng thể và toàn diện cách sống, cách làm việc và phương thức sản xuất của cá nhân, tổ chức. Hiện nay, chuyển đổi số là một xu thế trên toàn cầu, có tác động vô cùng sâu rộng lên các lĩnh vực của nền kinh tế – chính trị – xã hội.
Nhận thức được tầm quan trọng của chuyển đổi số, ngay từ năm 2020, thủ tướng chính phủ đã ký quyết định số 749/QĐ-TTg ngày 03/6/2020 phê duyệt “Chương trình Chuyển đổi số quốc gia đến năm 2025, định hướng đến năm 2030 với mục tiêu đưa Việt Nam vào nhóm 50 nước dẫn đầu về Chính phủ điện tử (EGDI).
Theo đó, trong giai đoạn 2021 – 2030, thực hiện chuyển đổi số quốc gia, phát triển kinh tế số, nâng cao năng suất, chất lượng, hiệu quả, sức cạnh tranh của nền kinh tế là một trong 6 nhiệm vụ trọng tâm của đất nước, được xác định trong Nghị quyết Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII của Đảng.
Hưởng ứng chủ trương, chính sách của Đảng và Nhà nước, các tập đoàn, tổng ty, ngân hàng trong Khối là các doanh nghiệp nhà nước (DNNN) lớn có năng lực và trách nhiệm đi đầu trong thực hiện chuyển đổi số, vừa đảm bảo vai trò dẫn dắt và sự phát triển bền vững của doanh nghiệp, vừa góp phần lan tỏa, thực hiện thành công chuyển đổi số quốc gia.
Ngày 07/6/2021, Đảng ủy Khối đã ký ban hành Nghị quyết số 02-NQ/ĐUK “Thực hiện chuyển đổi số tại các doanh nghiệp, đơn vị trong Khối Doanh nghiệp Trung ương đến năm 2025, định hướng đến năm 2030”. Nghị quyết không chỉ đưa ra quan điểm, mục tiêu, nhiệm vụ và giải pháp cũng như cách thức tổ chức thực hiện khi tiến hàng chuyển đổi trong Khối mà còn chỉ rõ nhóm ngành cần ưu tiên chuyển đổi số tại các doanh nghiệp, đơn vị trong Khối DNTW đến năm 2025, định hướng đến năm 2030, trong đó:
“Các doanh nghiệp trong ngành giao thông vận tải trong Khối (TCT Hàng hải Việt Nam, TCT Hàng Không Việt Nam, TCT Đường sắt Việt Nam, TCT Công nghiệp Tàu thủy) cần ưu tiên chuyển đổi số để nâng cao hiệu quả hoạt động vận vải, kho vận giúp tiết kiệm thời gian chi phí; đẩy nhanh quá trình luân chuyển hàng hóa; tăng cường hiệu quả phục vụ người dân và doanh nghiệp; góp phần nâng cao năng lực cạnh tranh của quốc gia.
Đẩy nhanh tiến độ chuyển đổi số và ứng dụng các thành tựu của Cuộc CMCN 4.0 tại các doanh nghiệp. Tổng Công ty Hàng không Việt Nam giữ vững vai trò tiên phong, dẫn dắt ngành vận tải hàng không Việt Nam, đồng thời nằm trong nhóm dẫn đầu về chuyển đổi số của ngành hàng không ASEAN.
Chuyển đổi các hạ tầng logistics (như cảng biển, cảng thủy nội địa, hàng không, đường sắt, kho vận…) thành các hạ tầng thông minh sử dụng các công nghệ tự động hóa, IoT, AI,… để nâng cao hiệu quả hoạt động.
Phát triển các nền tảng kết nối giữa các chủ hàng, các nhà giao vận và khách hàng, đơn vị quản lý hạ tầng logictics để phát triển thành hệ thống một cửa để cho phép chủ hàng có thể tìm ra phương tiện lộ trình tối ưu để vận chuyển hàng hóa và các kho bãi chính xác cũng như hỗ trợ việc đóng gói, hỗ trợ đăng ký, hoàn thiện các quá trình xử lý các thủ tục liên quan trên môi trường số”.
Là một trong những Đảng bộ nòng cốt của khối, TCT hàng không Việt Nam luôn nghiêm túc, kịp thời lãnh đạo, chỉ đạo việc học tập, quán triệt, tuyên truyền và triển khai thực hiện các Nghị quyết, Chỉ thị của cấp trên. Ngày 16/6/2021, cụm từ “Văn hóa số” lần đầu tiên được văn bản hóa tại VNA trong Nghị Quyết số 55-NQ/ĐUTCT về công tác chuyển đổi số của Đảng ủy TCT.
Nghị quyết chỉ rõ: “Chuyển đổi số trước tiên là chuyển đổi nhận thức của lãnh đạo và CBNV các cấp. Chuyển đổi số cũng là sự thay đổi về văn hóa của TCT. Chuyển đổi số phải xuất phát từ người đứng đầu, trong đó cấp ủy, người đứng đầu CQĐV đóng vai trò quyết định.”
Trên cơ sở đó, Đảng ủy TCT đưa ra mục tiêu “xây dựng văn hóa chuyển đổi số”, có sự khuyến khích ủng hộ của lãnh đạo và sự tham gia của mọi cá nhân, triển khai rộng rãi trong TCT.
Với mục tiêu “Đưa VNA trở thành hãng hàng không số vào năm 2025, giữ vững vai trò tiên phong dẫn dắt ngành vận tải hàng không Việt Nam, đồng thời nằm trong nhóm dẫn đầu về chuyển đổi số của ngành hàng không ASEAN”, ngày 20/8/2021, HĐQT TCT đã ra quyết định thành lập Ban Chỉ đạo Chuyển đổi số với chức năng tham mưu cho TVĐU, HĐQT trong việc chỉ đạo triển khai chiến lược, kế hoạch, chương trình CĐS, ban hành chủ trương, cơ chế, chính sách tạo môi trường thuận lợi nhằm thúc đẩy CĐS toàn TCT, đáp ứng yêu cầu chuyển đổi số của VNA.
Tháng 2/2022, Trung tâm Chuyển đổi số được ra đời. Cùng năm đó, Vietnam Airlines đã tiến hành đánh giá mức độ chuyển đổi số theo bộ chỉ số DBI của Bộ Thông tin và Truyền thông. Bộ Chỉ số DBI gồm có 6 trụ cột đánh giá bao gồm: Trải nghiệm số cho khách hàng, Chiến lược, Hạ tầng và công nghệ số, Vận hành, Chuyển đổi số văn hóa doanh nghiệp và Dữ liệu và tài sản thông tin.
Tiến thêm một bước trên hành trình chuyển đổi số toàn diện – cả về văn hóa lẫn công nghệ, dữ liệu, tháng 10/2022, Tuyên bố Văn hóa số Vietnam Airlines ra đời với biểu tượng “Bông sen số” có 7 thành tố: An toàn là số 1, Quyết định dựa trên dữ liệu, Khách hàng làm trung tâm, Đổi mới sáng tạo, Linh hoạt thích ứng, Tư duy số, Mở rộng hợp tác.
Với nỗ lực ứng dụng công nghệ thông tin vào hoạt động sản xuất kinh doanh, Tổng công ty đã liên tục nâng cấp các hệ thống gồm hệ thống quản lý kế hoạch bay, phân bay, điều hành bay; hệ thống phần mềm theo dõi tình trạng máy bay, động cơ và quản lý vật tư, kỹ thuật máy bay; hệ thống quản lý kế toán doanh thu, kế toán tổng hợp; hệ thống quản lý kế hoạch, nhân sự, quản lý chung.
Bên cạnh việc đẩy mạnh gia tăng trải nghiệm dành riêng cho khách hàng Bông sen vàng, Tổng công ty cũng đẩy mạnh phát triển các chức năng thương mại điện tử, chuyển đổi hành trình khách hàng, tự động hóa hoạt động marketing, cá nhân hóa trải nghiệm, chuyển đổi dịch vụ khách hàng, nâng thang điểm về mức độ phát triển thương mại điện tử, mở rộng hệ sinh thái bán và tiếp thị online.
Việc tạo ra hệ thống dịch vụ có thể truy cập thông qua nhiều thiết bị, chẳng hạn như máy tính, điện thoại, máy tính bảng và các kiosk tại sân bay, hệ thống check-in tự động song ngữ cho hành khách bay quốc tế tại sân bay Đà Nẵng, khai trương hệ thống nhập cảnh tự động tại các sân bay Đà Nẵng, Nội Bài, Cam Ranh, Tân Sơn Nhất và Phú Quốc, … đã cho thấy sự ứng dụng và phát triển mạnh mẽ của chuyển đổi số trong từng ngóc ngách của hoạt động ngành.
Trong những năm tới, cùng với sự phát triển của công nghệ số, TCT hàng không Việt Nam nói riêng và các hãng hàng không nói chung sẽ phải tiếp tục nắm bắt các xu hướng chuyển đổi số để có thể theo kịp cuộc cách mạng số của ngành và không bị bỏ lại phía sau.