
Cập nhật điểm mới của Luật Lưu trữ năm 2024
Chương trình chia thành hai phần: Tập trung vào việc phổ biến, cập nhật những điểm mới trong Luật Lưu trữ năm 2024; chuyên đề nghiệp vụ bảo vệ bí mật Nhà nước. Tham gia giảng dạy là các chuyên gia, giảng viên đến từ Trường Đại học Khoa học Xã hội và Nhân văn (Đại học Quốc gia Hà Nội), gồm: TS. Cam Anh Tuấn – Trưởng khoa Lưu trữ học và Quản trị văn phòng, giảng viên chuyên đề Luật Lưu trữ năm 2024; ThS. Lê Thị Nguyệt Lưu, giảng viên chuyên đề “Nghiệp vụ bảo vệ bí mật Nhà nước và ThS. Nguyễn Trọng Tâm, giảng viên.
Nội dung tập huấn đã cung cấp một cái nhìn toàn diện về Luật Lưu trữ số 33/2024/QH15, ban hành ngày 21/6/2024, cùng các nghị định, thông tư mới liên quan như: Nghị định số 113/2025/NĐ-CP ngày 03/6/2025 quy định chi tiết thi hành một số điều của Luật Lưu trữ, Thông tư số 05/2025/TT-BNV ngày 14/5/2025 về quy định nghiệp vụ lưu trữ tài liệu số và Thông tư số 06/2025/TT-BNV ngày 15/5/2025 về quy định chi tiết một số điều của Luật Lưu trữ.
Một trong những điểm nhấn quan trọng được TS. Cam Anh Tuấn trình bày là việc đổi mới thuật ngữ chuyên môn: “Lưu trữ cơ quan” được thay thế bằng “lưu trữ hiện hành”; “bảo hiểm tài liệu lưu trữ” được đổi thành “lưu trữ dự phòng”; “tài liệu lưu trữ quý, hiếm” nay gọi là “tài liệu lưu trữ có giá trị đặc biệt”.
Luật cũng mở rộng phạm vi điều chỉnh, khẳng định tài liệu hình thành từ cá nhân, gia đình, dòng họ, cộng đồng thuộc Phông Lưu trữ Quốc gia Việt Nam. Đồng thời, các bộ, ngành như Quốc phòng, Công an, Ngoại giao có trách nhiệm quản lý, lưu trữ tài liệu và hằng năm gửi danh mục hồ sơ, tài liệu vĩnh viễn về Bộ Nội vụ.

Một thay đổi đáng chú ý khác là hoạt động dịch vụ lưu trữ được quy định là ngành nghề kinh doanh có điều kiện, với phạm vi cung cấp từ hạ tầng bảo quản tài liệu, số hóa, tạo lập cơ sở dữ liệu đến tư vấn nghiệp vụ lưu trữ. Ngoài ra, Luật bổ sung nguyên tắc bảo đảm quyền tiếp cận thông tin của công dân, tách bạch giữa việc sử dụng tài liệu lưu trữ (phục vụ tại phòng đọc, cấp bản sao) và phát huy giá trị tài liệu (triển lãm, xuất bản, công bố…).
Về lưu trữ trong cơ quan, luật quy định thời hạn lưu trữ hồ sơ có thể là vĩnh viễn hoặc có thời hạn, tối thiểu 2 năm và tối đa 70 năm kể từ khi kết thúc công việc. Hồ sơ phải được nộp vào lưu trữ hiện hành trong vòng một năm, và vào lưu trữ lịch sử trong vòng năm năm kể từ khi hoàn tất ở lưu trữ hiện hành. Người đứng đầu cơ quan, tổ chức có trách nhiệm chỉ đạo việc số hóa, xây dựng cơ sở dữ liệu, nộp hồ sơ đúng thành phần, đúng thời hạn, đồng thời chịu trách nhiệm trong việc lựa chọn tổ chức cung cấp dịch vụ lưu trữ.
Chuyên đề cũng chỉ ra lợi ích và rủi ro của văn thư lưu trữ điện tử. Về lợi ích, hệ thống này góp phần thúc đẩy chuyển đổi số, cung cấp thông tin nhanh và chính xác, hạn chế tiêu cực và nâng cao tính minh bạch. Tuy nhiên, rủi ro tiềm ẩn là nguy cơ mất an toàn thông tin, khó kiểm soát dữ liệu điện tử trong tương lai và sự lãng phí nguồn lực nếu công nghệ không theo kịp yêu cầu.
Nâng cao nghiệp vụ bảo vệ bí mật Nhà nước
Ngoài ra, chương trình tập huấn còn đi sâu vào nghiệp vụ bảo vệ bí mật Nhà nước. ThS. Lê Thị Nguyệt Lưu nhấn mạnh những nội dung cốt lõi của Luật Bảo vệ bí mật Nhà nước, bao gồm việc ban hành văn bản pháp luật, quyết định giải mật, công bố danh mục bí mật, bảo đảm cơ sở vật chất, kỹ thuật và chính sách cho lực lượng thực hiện công tác này. Các hành vi nghiêm cấm như làm lộ, chiếm đoạt, mua bán, sao chụp trái phép hay lợi dụng bảo vệ bí mật Nhà nước để che giấu hành vi vi phạm cũng được nêu rõ.
Các chế tài xử lý vi phạm cũng được phổ biến cụ thể: Xử phạt hành chính theo Nghị định 144/2021/NĐ-CP, xử lý trách nhiệm hình sự theo Bộ luật Hình sự năm 2015 (sửa đổi năm 2017) tại các điều 337, 338. Biện pháp khắc phục có thể bao gồm thu hồi, gỡ bỏ tài liệu bí mật Nhà nước hoặc tịch thu tang vật, phương tiện vi phạm.

Trong phạm vi cơ quan, trách nhiệm của người đứng đầu được đặc biệt nhấn mạnh: ban hành nội quy bảo vệ bí mật Nhà nước, chỉ đạo và kiểm tra việc thực hiện, xử lý kịp thời các vụ việc lộ, mất bí mật, cũng như tổ chức thu hồi tài liệu khi cán bộ thôi việc hoặc chuyển công tác. Luật cũng quy định rõ người đứng đầu và cấp phó được ủy quyền phải xác định bí mật, độ mật, phạm vi lưu hành, căn cứ vào danh mục bí mật Nhà nước ngành Giao thông vận tải do Thủ tướng Chính phủ ban hành.
Danh mục bí mật Nhà nước trong lĩnh vực Giao thông vận tải được trình bày gồm nhiều nội dung quan trọng như kế hoạch ứng phó khẩn nguy với hành vi can thiệp bất hợp pháp vào hoạt động hàng không dân dụng, phương án bảo đảm an ninh cho chuyên cơ, chuyên khoang, các tài liệu đàm phán quốc tế, cũng như kế hoạch điều tra tai nạn hàng không, hàng hải, sự cố hạ tầng giao thông cấp I trở lên.
Cuối cùng, chương trình nhấn mạnh tiêu chuẩn với người được phân công thực hiện nhiệm vụ bảo vệ bí mật Nhà nước: Phải có phẩm chất đạo đức, trình độ chuyên môn, hiểu biết pháp luật và tinh thần trách nhiệm cao. Quy trình quản lý tài liệu mật từ khâu đăng ký, vận chuyển, sao chụp, lưu trữ đến tiêu hủy, giải mật cũng được hướng dẫn cụ thể, đảm bảo tuân thủ chặt chẽ các quy định của pháp luật.
Với sự tham gia đông đảo của các cơ quan, đơn vị thuộc Tổng công ty cùng sự hướng dẫn chuyên môn từ đội ngũ giảng viên giàu kinh nghiệm, chương trình tập huấn không chỉ mang lại kiến thức cập nhật về Luật Lưu trữ và nghiệp vụ bảo vệ bí mật Nhà nước mà còn góp phần nâng cao ý thức, trách nhiệm của mỗi cán bộ, nhân viên trong công tác văn thư – lưu trữ, bảo đảm an toàn thông tin và phục vụ hiệu quả sự phát triển bền vững của Vietnam Airlines.









